Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân Bài mẫu suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng siêu hay

12.487 lượt xem

KhoaHoc mời các bạn cùng tham khảo dàn ý cùng những bài văn mẫu về Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân hay được chúng tôi tổng hợp trong bài viết dưới đây.

Dàn ý cảm nhận về nhân vật ông Hai trong truyện Làng

I. Mở bài:

- Giới thiệu tác giả Kim Lân và truyện ngắn Làng: Truyện ngắn “Làng” của Kim Lân đã ca ngợi về tinh thần cách mạng và lòng yêu nước đó của người dân Việt Nam, cụ thể là nói về một người nông dân có tình cảm gắn bó với làng, với quê hương và đất nước sâu sắc.

II. Thân bài:

1. Khái quát về nhân vật ông Hai:

- Truyện kể về ông Hai, một người yêu làng và gắn bó với làng, lúc nào ông cũng khoe về làng của mình

- Ông cứ kể say sưa trong niềm nhớ thương về làng mà không cần biết người nghe có chú ý hay không.

2. Tình cảm của ông Hai đối với làng chợ Dầu:

- Ông tự hào về làng mình từ cơ sở vật chất cho tới cái sinh phần của tổng đốc làng ông, vinh dự vì làng có bề dày lịch sử. Sau cách mạng ông khoe về tinh thần cách mạng của làng ông, ngay cả cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập, ông khoe những hố, ụ và hào.

3. Diễn biến tâm lý của nhân vật ông Hai khi nghe tin làng theo Tây:

- Khi ông nghe tin làng mình theo Tây, “cổ họng ông nghẹn đắng lại, da mặt tê rân rân”, ông lặng đi tưởng như không thở được

- Ông hỏi đi hỏi lại nhiều lần rồi lẳng lặng bỏ đi trong nỗi đau đớn và nhục nhã khi biết làng mình theo giặc

- Khi về nhà, ông nằm vật ra giường, đêm đó trằn trọc không ngủ được.

- Ông nhìn đám trẻ ngây thơ mà bị mang tiếng Việt gian rồi khóc.

- Ông điểm lại mọi người trong làng nhưng thấy ai cũng có tinh thần cả nên ông vẫn không tin lại có ai làm điều nhục nhã ấy.

- Tâm trạng ông bị ám ảnh, day dứt và mặc cảm với thân phận là người của làng Việt gian bán nước.

- Bên tai ông đầy rẫy tiếng chửi bọn Việt gian, ông chẳng làm được gì, chưa thể đối mặt với điều đó, ông chỉ biết cúi gằm mặt mà đi

- Khi mụ chủ nhà muốn đuổi gia đình ông đi bởi ông là người làng Chợ Dầu, ông thoáng nghĩ về lại làng nhưng ông đã gạt phăng đi, ông dứt khoát “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”

4. Niềm sung sướng và vui mừng khi biết làng không phải Việt gian:

- Ông đi từ đầu làng tới cuối làng để khoe tin làng mình không theo giặc, ông tìm gặp ông Thứ để thanh minh về làng mình, khoe cả việc nhà ông bị đốt cháy một cách sung sướng, hả hê, bởi đó là minh chứng rõ nhất cho việc làng ông không phải Việt gian bán nước.

III. Kết bài:

- Khẳng định giá trị nghệ thuật và nội dung của truyện ngắn: tác giả đã cho người đọc hình dung được một thời kì chống Pháp sôi nổi của nhân dân, tinh thần trung kiên với Cách mạng và một lòng theo Bác, kháng chiến đến cùng

- Qua diễn biến tâm trạng của ông Hai ta thấy được tình yêu làng sâu sắc và tình yêu nước thiết tha gắn với tinh thần kháng chiến của ông.

Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân ngắn gọn

Kim Lân là một nhà văn có biệt tài viết truyện ngắn. Ông viết không nhiều nhưng lại viết hay về người nông dân, đặc biệt là những số phận nhỏ bé. Một số tác phẩm tiêu biểu của ông là Nên vợ nên chồng, Vợ nhặt… và trong đó có Làng. Nổi bật lên ở truyện ngắn này là vẻ đẹp của ông Hai.

“Làng” được sáng tác năm 1948, vào những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp đầy gay go ác liệt. Nhân vật chính là ông Hai phải rời làng chợ Dầu để đi tản cư. Bỗng một ngày ông nghe tin làng của mình theo giặc. Đặt ông Hai vào trong một tình huống éo le để làm bật lên nét đẹp trong nhân cách của người nông dân.

Trước tiên, ông Hai là một người rất yêu làng, yêu nước.

Ở nơi tản cư, ông hay khoe về làng bằng tất cả tình yêu và sự tự hào. Ông tự hào về những cái điều nhỏ nhất rằng làng ông có đường lát bằng đá xanh, trời mưa đi bùn không dính gót, tự hào cả về cái dinh thự của viên tổng đốc… Khi nghe tin làng chợ Dầu theo giặc, đặc biệt sau khi nghe lời khẳng định “Thì chúng tôi vừa ở dưới ấy lên…”, ông Hai như không tin vào tai mình. Một loạt diễn biến tâm lý phức tạp đã được Kim Lân miêu tả tài tình. Ông trả tiền nước, đứng dậy, “cười nhạt”, “chèm chẹp miệng” rồi nói “Hà, nắng gớm, về nào”. Câu nói ấy sao mà cay đắng, xót xa như một sự trốn chạy hiện tại, không muốn ai phát hiện ra mình là người làng chợ Dầu. Nếu trên đường đi tới phòng thông tin ông hiên ngang bao nhiêu thì giờ ông lại “cúi gằm mặt mà đi”. Khi về đến nhà nhìn thấy lũ con “nước mắt ông giàn ra”. Giọt nước mắt đầy đau khổ. Ông nghĩ đến thân phận của mình, của gia đình mình cũng là người làng Việt gian. Từ đau khổ ông chuyển thành tức giận mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà làm cái giống Việt gian bán nước”. Nhưng chính ông cũng không chắc chắn với lời nói của mình. Trong đầu ông xuất hiện hàng loạt các câu hỏi. Ông nửa tin nửa không muốn tin. Ông vừa khẳng định vừa phủ định. Ông Ha đang ở trạng thái giằng xé, nghĩ ngờ mãnh liệt. Điều này cũng xuất phát từ tình cảm sâu nặng của ông với làng chợ Dầu. Đến khi làng của ông được trả lại sự trong sạch, thì ông còn vui mừng thông báo “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ, đốt sạch!”. Chi tiết có vẻ nghịch lý nhưng lại là lời khẳng định làng chợ Dầu của ông không theo Tây, không phải Việt gian mà còn có tinh thần chiến đấu. Trong ngọn lửa đốt nhà ông Hai là một ngôi làng đang hồi sinh, là tình yêu làng của ông Hai vẫn vẹn nguyên và to lớn.

Ông còn là một người nông dân yêu nước. Hàng ngày, ông vẫn thường ra phòng thông tin để nghe ngóng tình hình tin tức kháng chiến và cả thời sự trên thế giới. Khi nghe tin một em nhỏ “xung phong bơi ra giữa hồ Hoàn Kiếm”, một anh trung đội trưởng giết được bảy tên giặc và biết bao tin tức của cuộc chiến, “ruột gan ông cứ múa cả lên”. Khi biết làng chợ Dầu theo giặc, ông phải lựa chọn giữa tình yêu làng và lòng yêu nước. Cuối cùng ông khẳng định chắc nịch “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Vậy là ông Hai đã chọn theo kháng chiến và tin vào cụ Hồ. Đây cũng thể hiện tư tưởng tiến bộ của người nông dân, nhận thức được tình yêu nước lớn lao hơn và bao trùm lên tình yêu làng xóm. Suy cho cùng quyết định như vậy cũng là để bảo vệ cả hai thứ tình cảm thiêng liêng này.

Vẻ đẹp của ông Hai là vẻ đẹp của một người nông dân hiền lành chất phác có sự hòa quyện giữa tình yêu làng và lòng yêu nước. Ông Hai đã gợi lên trong lòng bạn đọc bao niềm yêu mến trân trọng và in đậm dấu ấn.

Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân - Mẫu 1

Tình yêu làng quê, đã từ lâu, gần như trở thành một tình cảm hiện hữu trong đời sống tình cảm của người nông dân Việt Nam. Ông Hai cũng vậy. Tình cảm mà ông dành cho làng Chợ Dầu thân yêu không chỉ dừng ở vẻ đẹp bên ngoài với đường lát đá xanh, nhà gạch san sát,…mà còn về tất cả mọi thứ có trong làng. Lòng yêu làng xóm quê hương đã tạo nên một ông Hai rất đặc biệt trong đoạn trích truyện ngắn Làng của Kim Lân.

Đoạn trích mở ra khi ông Hai cùng gia đình đã đi tản cư. Nhưng không vì lẽ đó mà ông quên làng Chợ Dầu, ngược lại, ông thường đi khoe làng với mọi người ở nơi ở mới. Kim Lân đã khéo léo khi xây dựng ông Hai với một thói quen rất lạ nhưng đáng yêu đó. Khoe làng tuyệt nhiên không phải vì hợm hĩnh mà chỉ đơn thuần ông muốn san sẻ tình yêu làng nồng nàn trong con tim mình với mọi người. Những lúc rảnh rỗi, ông vào phòng thông tin nghe đọc báo. Dù thực sự khổ tâm vì không thể tự đọc nhưng ông luôn thích thú khi nghe “lỏm” được tin về chiến công của quân ta, những lúc đó “ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá”. Sự nhớ nhung khôn nguôi về làng Chợ Dầu tạo thành thói quen khoe làng cùng lòng vui sướng khi nghe những thành công của cuộc kháng chiến cho ta thấy một ông Hai với lòng yêu làng, ủng hộ cách mạng rất trong sáng, rất tiêu biểu của những người nông dân Việt Nam.

Nhưng như người xưa đã nói, cái gì cũng cần thời gian thử thách. Lòng yêu làng, yêu nước của ông bị đặt vào một tình huống éo le: làng Dầu của ông theo giặc. Tin này như một đòn giáng mạnh vào lòng tin và tình yêu sẵn có trong lòng ông, làm ông chao đảo. Nghệ thuật miêu tả tâm lí tài tình của Kim Lân đã được bộc lộ rõ ở đây. Ông Hai hỏi đi hỏi lại mãi người phụ nữ vừa mới tản cư lên, cổ ông nghẹn ắng lại, da mặt tê tê rân rân, ông lặng đi như ngừng thở… Tin đó quá bất ngờ và quá dữ dội đối với ông. Sau bất ngờ, ông trở nên xấu hổ, cứ “cúi gằm mặt xuống mà đi” và lo nghĩ. Ngôn ngữ độc thoại nội tâm được tác giả sử dụng thật tài tình. Ông Hai kiểm chứng lại tin đồn, ngờ ngợ, tự nhủ với bản thân rằng lẽ nào người trong làng lại làm thế. Như muốn an ủi bản thân nhưng rồi những chứng cứ không thể chối .cãi với những cái tên không thể sai đã dập tắt hi vọng của ông. Ông nắm chặt tay lại mà rít lên: “Chúng bay ăn miếng cơm hay miếng gì vào mồm mà đi làm cái giống Việt gian bán nước để nhục nhã thế này”. Chỉ với một câu thôi mà ta như thấy được sự chênh vênh, bấp bênh giữa tình yêu làng nước và lòng tin trong lòng ông Hai. Sự việc được đẩy lên đỉnh điểm khi mụ chủ nhà nói xa nói gần muốn đuổi gia đình ông. Nó đẩy ông đến bờ vực chọn lựa: về làng tức là bỏ kháng chiến, không theo Cụ Hồ, nhưng ông cũng vẫn còn yêu cái làng Chợ Dầu của ông lắm lắm, mặc dù ông đã lo sợ, đã xấu hổ… từ khi nghe tin làng theo giặc. Tự trong thâm tâm, phải yêu làng lắm ông mới đau khổ đến như vậy.

Nhưng rồi, ông đã dũng cảm gạt tình yêu làng sang một bên, “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Sự đấu tranh tâm lý đã cho ông một sự lựa chọn dứt khoát nhưng cũng để lại trong lòng ông một nỗi đau buồn lớn. Như để khẳng định lại lòng yêu nước của mình, ông hỏi đứa con trai út:

” – Thế nhà con ở đâu?

– Nhà ta ở làng Chợ Dầu. [… ]

– À, thầy hỏi con nhé. Thế con ủng hộ ai?

Thằng bé giơ tay lên, mạnh bạo và rành rọt:

– Ủng hộ Cụ Hồ Chí Minh muôn năm”.

Không, ông không quên làng Chợ Dầu nhưng ông sống vì cách mạng. Câu trả lời ngây thơ, trong sáng và thành thực của cậu con trai út như tiếng lòng của ông, khẳng định tấm lòng trong sạch và son sắt của bố con ông. Tác giả đã đặt ông Hai vào một hoàn cảnh đặc biệt để nhân vật hộc lộ những phẩm chất và tính cách đáng quý của lòng yêu nước.

Rồi cũng đến lúc ông Hai được nghe tin cải chính về làng Chợ Dầu thân yêu của mình. Sự vui sướng của ông được bộc lộ qua cử chỉ mua bánh cho con, rồi lật đật tới nhà bác Thứ, mụ chủ nhà,… để báo tin. Ông không kịp nói gì nhiều, chỉ nói về cái nhà mình bị đốt, về làng Chợ Dầu không theo giặc. Những tưởng chuyện nhà bị đốt là chi tiết không hợp lí khi để ông Hai vui mừng kể lại nhưng thực ra, ẩn sau đó là những gì thối nát mục ruỗng của chế độ cũ đã bị thiêu đốt hay lòng nghi ngờ đã bị thiêu đốt? Đó là minh chứng cho sự trong sạch của lòng ông. Rồi ông lại “vén quần lên tận bẹn mà nói chuyện về cái làng của ông”, cứ như thể ông vừa từ trong làng ấy bước ra.

Để xây dựng thành công nhân vật ông Hai, Kim Lân đã dựng được một tình huống truyện rất đặc biệt mà qua đó nhân vật bộc lộ được chiều sâu tâm trạng. Nghệ thuật miêu tả tâm lí trong Làng rất tinh tế, thông qua từng cử chỉ, hành động, ý nghĩ, lời nói,… làm cho nhân vật trở nên sống động, hấp dẫn. Khả năng sử dụng ngôn ngữ đối thoại cùng độc thoại nội tâm linh hoạt đã tạo nên một ông Hai rất điển hình của người nông dân Việt Nam yêu nước nhưng vẫn có được những nét riêng, dấu ấn riêng của bản thân mình.

Ông Hai – nhân vật điển hình của người nông dân trong kháng chiến chống thực dân Pháp: tình yêu làng xóm đã được hòa quyện, gắn bó với tình yêu quê hương đất nước.

Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân - Mẫu 2

Kim Lân là một trong những nhà văn nổi tiếng với đề tài người nông dân. Ở ông có sự đi sâu, tìm tòi và khám phá mãnh, liệt khai thác những khía cạnh mới về đời sống cũng như tâm lí tình cảm của người nông dân trong kháng chiến. Trong đó nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” thực sự đã để lại cho người đọc nhiều suy ngẫm. Tình cảm của ông với đất nước cũng chính là đại diện cho tình cảm của người dân trong kháng chiến.

Có thể nói trong tác phẩm Làng nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi xây dựng nhân vật ông Hai. Những diễn biến tâm lí của nhân vật vô cùng phù hợp với tình huống truyện. Khai thác triệt để nội tâm nhân vật bằng độc thoại và đối thoại nội tâm càng làm nổi bật tình yêu đất nước mãnh liệt của người nông dân thời bấy giờ. Nó trở thành một trong những điểm nhấn của tác phẩm và mang đến thành công cho nhà văn.

Ông Hai hiện lên là hình ảnh một người nông dân chân chất thật thà cả đời chỉ biết quanh quẩn với cái làng Chợ Dầu của mình. Thế nhưng ông yêu làng của mình lắm, minh chứng của nó chính là việc khi có lệnh tản cư ông đã lưỡng lự không muốn đi. Ông muốn ở lại để sát cánh bên bộ đội bên anh em thế nhưng vì hoàn cảnh ông đành phải theo gia đình xa làng. Ở nơi tản cư trái tim người con ấy vẫn không một phút nào ngơi nghỉ nhớ về nơi chôn nhau cắt rốn của mình. Ông hay chạy đi với nhà bác hàng xóm về cái làng Chợ Dầu lát toàn gạch đá xanh, có cái chòi thông tin cao quá ngọn tre, phòng thông tin rộng lắm…. Với ông tình yêu làng trở thành mạch máu, thớ thịt trong cơ thể.

Kim Lân đã vô cùng khéo léo khi xây dựng thành công tình huống truyện đẩy nhân vật đến đỉnh điểm của sự mâu thuẫn từ đó nổi bật lên tình yêu nước mãnh liệt. Tình huống truyện mà tác giả đưa ra đó chính là cái tin làng Chợ Dầu theo giặc. Phải nói nó chính là động lực đẩy nhân vật ông Hai đến đỉnh điểm của sự mâu thuẫn và đau khổ.

Với một người yêu nước như ông thì cái tin này chẳng khác nào như nhát dao cứa vào trái tim ông. Cái mặt ông méo xệch đi, ông bần thần không dám tin đó là sự thật hỏi đi lại hỏi xem có phải là tin đồn thất thiệt không. Chỉ đến khi nhận được cái gật đầu chắc nịch “Cả làng nó đi theo Tây rồi ông ạ. Từ thằng chủ tịch trở xuống hết”. Đến lúc này ông lão mới cặm cụi cúi gằm mặt xuống đất bước chân nặng trịch về nhà.

Về đến nhà ông nằm vật ra giường đầy đau khổ. Hóa ra cái làng mà ông yêu thương tự hào đến thế giờ theo tây rồi đấy. Ông gắt gỏng ngay cả với bà vợ tội nghiệp của mình. Đến đàn con thơ cũng chẳng dám chơi đùa khi thấy bố mình như thế nữa.

Nõi đau càng trở nên đỉnh điểm khi bà chủ nhà có ý định đuổi những người dân làng Chợ Dầu đi chỗ khác. Ông Hai càng như rơi vào tuyệt vọng. Lúc này ông chỉ biết ôm đàn con lủi thủi một chỗ. Ông hỏi nó những câu hỏi yêu làng không? Theo ai? Chỉ đến khi nhận được câu trả lời chắc nịch của nó nội tâm ông mới vơi đi phần nào. Bởi ông đau quá nỗi đau ấy chẳng biết phải nói với ai cả. Ông đành phải tự nói trong đầu để vơi đi nỗi nhục nhã này. Biết bao ngày, chân ông không dám bước ra khỏi cổng vì ông sợ sẽ bắt gặp những cái nhìn xét nét cái chỉ chỏ đầy ngụ ý của những người xung quanh. Ông chỉ thương cho những đứa trẻ tội nghiệp của mình, mới bé tí mà đã mang tiếng con của làng Việt gian. Ông cười trong chua xót, bởi có lẽ trái tim ông bây giờ không còn chịu nổi thêm bất cứ điều tiếng gì nữa rồi. Thế nhưng ẩn sâu trong nỗi đau ấy, tiếng nói ngây thơ của con trẻ như đưa ông đến với một quyết định vĩ đại “Làng thì yêu thật nhưng nếu làng theo giặc thì phải thù”. Để có được quyết định này không biết người đàn ông này đã trải qua bao nhiêu giằng xé nội tâm, bao nhiêu ray rứt. Bởi lẽ không có ai có thể quay lưng với mảnh đất đã chôn nhau cắt rốn của mình được?

Thế nhưng sau những ngày u uất tưởng chừng như đường cùng đó ông đã tìm thấy chút ánh sáng cho cuộc đời mình. Cái tin làng Chợ Dầu theo giặc đã được cải chính, do chính ông chủ tịch lên thông báo. Ông Hai khấp khởi chạy về nhà, dường như con người ngày hôm qua còn ủ ê bê bết đó đã không còn thay vào đó là một con người mắt lấp lánh đầy hạnh phúc. Ông mua kẹo về cho các con rồi lại lật đật chạy sang nhà hàng xóm khoe rằng làng ông không theo giặc, nào thì cái làng Chợ Dầu bị giặc đốt hết rồi, chính ông chủ tịch lên nói vậy…. Niềm vui, khát sống đã trở lại với con người ấy. Với ông cái tin này còn quý hơn là việc ông được sinh ra lần nữa. Bởi nó chính là danh dự là nhân phẩm và là đức tin của mỗi người. Đến cái nhà tài sản quý báu nhất của mỗi con người mà ông còn chẳng tiếc thì còn cái gì có thể hơn được nữa?

Nhà văn Kim Lân đã vô cùng thành công khi tạo nên một cốt truyện vô cùng đặc sắc. Với việc xây dựng thành công nhân vật khai thác triệt để nội tâm thông qua những độc thoại nội tâm càng khiến hình ảnh người nông dân hiện lên rõ nét. Đó là hình ảnh đại diện của những con người chất phác thời bất giờ. Diễn biến tâm lí của ông Hai là hoàn toàn hợp lí so với cốt truyện từ bình lặng đến cao trào rồi quay về ngập tràn trong hạnh phúc, qua đó thể hiện được tình yêu nước mãnh liệt của nông dân lao động thời bấy giờ.

Ông Hai là một hình tượng vô cùng quen thuộc của người nông dân thời bấy giờ. Những con người giản dị chất phác nhưng có đức tin mãnh liệt về đảng về Cụ Hồ. Nó trở thành những tấm gương sáng trong kháng chiến để độc giả thêm quý mến và ngưỡng mộ.

Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân - Mẫu 3

Nếu như trước Cách mạng Tháng Tám, Ngô Tất Tố mang tới một chị Dậu với sức sống mãnh liệt của người nông dân, Nam Cao mang tới một Lão Hạc đầy lòng tự trọng và tình yêu thương con vô bờ bến,… thì sau Cách mạng Tháng Tám, Kim Lân – nhà văn nông dân – mang tới cho bạn đọc hình ảnh người nông dân thời kì đổi mới. Đó chính là nhân vật ông Hai trong truyện ngắn “Làng” với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, tha thiết.

Sinh ra và lớn lên nơi làng quê Việt Nam, giữa những người nông dân chất phác, nhà văn Kim Lân đã sớm gắn bó và am hiểu sâu sắc về cuộc sống ở nông thôn, sáng tác nhiều tác phẩm về đề tài này. Trong thời kì đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, khi người dân miền Bắc được lệnh tản cư, ông lại một lần nữa khắc họa hình ảnh người nông dân trong truyện ngắn “Làng”, không phải trong những vấn đề thường nhật, mà về tình yêu làng quê và đất nước của những con người chân lấm tay bùn ấy. Tác phẩm được đăng lần đầu tiên trên tạp chí Văn nghệ năm 1948, đánh dâu bước chuyển biến tích cực trong hình tượng người nông dân và nhân thức của họ, đặc biệt qua nhân vật ông Hai.

Nét tính cách đầu tiên và dễ nhận thấy nhất ở ông Hai là tình yêu tha thiết đối với làng ông. Đối với người nông dân, làng không chỉ là một đơn vị hành chính, địa lí. Ở đó chứa đựng cuộc sống của họ, tất cả những gì gần gũi và thân thuộc với họ. Làng chính là quê hương, là cuộc đời họ. Ông Hai cũng vậy, ông có tính hay khoe làng với tất cả niềm hãnh diện. “Ông nói về cái làng ấy một cách say mê và náo nức lạ thường. Hai mắt ông sáng hẳn lên, khuôn mặt biến chuyển hoạt động.” Tình yêu làng đã biến ông Hai thành một con người hoàn toàn khác so với một ông Hai bị gò bó, tù túng trong căn bếp tản cư. Một nguồn sinh lực mới như dồi dào trong ông lúc đó. Tối này đến tối khác, ông nói đi nói lại về cái làng của ông. Kim Lân điểm nhịp câu chuyện bằng những lời trách móc ông hàng xóm nhãng ý không nghe chuyện, nhưng kỳ thực là để cho ta thấy rằng ông Hai không thực sự cần bác Thứ nghe, ông nói cho chính mình, nói để cho sướng miệng và cũng để thỏa nỗi nhớ làng. “Ông lại nghĩ về cái làng của ông, lại nghĩ đến những ngày cùng làm việc với anh em. […] Ông lại muốn về làng, lại muốn được cùng anh em đào đường, đắp ụ, xẻ hào, khuân đá.” Những ký ức về làng xưa, xóm cũ trở thành niềm an ủi, động viên ông Hai mỗi khi chán nản. Chỉ cần được ở lại làng, cùng chiến đấu với anh em thì như có một luồng sinh lực mới chảy dồi dào trong ông, và dù có gian khổ, khó nhọc, nguy hiểm đến bao nhiêu ông cũng chịu được. Hình ảnh đó hoàn toàn trái ngược với ông Hai lúc nào cũng buồn chán, bức bối, không biết làm gì trong căn bếp tản cư. Thế nhưng đó cũng chỉ là hồi ức, một hồi ức tươi vui và đầy tự hào đến nỗi mỗi khi nhớ lại, trong ông lại trào dâng một nỗi nhớ khôn nguôi : “Ông Hai nhớ cái làng, nhớ cái làng quá.” Với ông, ngôi làng của ông vốn đã là một điều gì đó vô cùng thiêng liêng và đẹp đẽ. Nay ở trong căn bếp tản cư chật hẹp, cái làng ấy lại càng đẹp hơn, trở thành một niềm mong ước, khao khát mãnh liệt. Điều đó hoàn toàn không phải phóng đại. Tâm sự của ông Hai là tâm sự của một người gắn bó với làng tha thiết, yêu làng bằng một niềm tự hào chân chính.

Tình yêu làng của ông Hai được thể hiện nổi bật và đậm nét nhất khi ông nghe tin làng ông theo Tây. Như sét đánh ngang tai, ông từ chối tin vào điều đó. “Cổ ông lão nghẹn ắng lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi, tưởng chừng như không thở được. Một lúc sau ông mới rặn è è, nuốt một cái gì vướng ở cổ.” Nếu như tin dữ ấy là cái làng đẹp đẽ của ông bị đốt trụi, nhà cửa, ruộng vườn của ông bị cướp mất thì có lẽ ông cũng không đau khổ bằng tin làng mình theo Tây. Tội nghiệp ông lão vui tính, xởi lởi giờ đây phải “cúi gằm mặt đi thẳng”, “nước mắt ông cứ giàn ra”. Giá ông không quá yêu làng, không quá tự hào về làng thì ông đã không thấy tủi nhục đến thế. Mấy chữ “cả làng chúng nó Việt gian theo Tây” như găm vào trái tim ông, vào niềm tự hào về cái làng mà ông yêu vô cùng. Tất cả những gì ông trân trọng giữ gìn trong tim giờ đây như đều sụp đổ tan tành. Ông không chấp nhận được sự thật ấy và đấu tranh nội tâm dữ dội. Lúc đầu là nghi ngại (“Nhưng sao lại nảy ra cái tin như vậy được ?“), nhưng sau đó là đau đớn khi được biết những bằng chứng rõ ràng (“Mà thằng chánh Bệu thì đích là người làng không sai rồi“). Phải thừa nhận cái tin đó, không thể nào tả được nỗi đau của ông lúc ấy. “Chao ôi ! Cực nhục chưa, cả làng Việt gian !” Có lẽ trong đời mình, ông Hai chưa từng chịu đựng hay thậm chí tưởng tượng được một nỗi đau, nỗi nhục như thế. Những tiếng ấy như thốt lên từ trái tim bị tổn thương, từ niềm tự hào bị chà đạp của ông, khiến người đọc cũng như cảm nhận được nỗi xót xa, tủi nhục của ông lúc ấy. Mà ông Hai đâu chỉ đau cho mình, đau cho làng, mà ông còn đau cho những người đồng hương, đồng cảnh ngộ. “Lại còn bao nhiêu người làng, tan tác mỗi người một phương nữa, không biết họ đã rõ cái cơ sự này chưa ?” Có thể những con người ấy trước kia có hiềm khích với ông, nhưng trước nỗi đau, nỗi nhục quá lớn này, tình yêu làng trỗi lên thật mạnh mẽ và đánh thức tình đồng hương trong ông. Kim Lân đã rất tài tình khi sử dụng hàng loạt câu cảm, câu hỏi liên tiếp trong nghệ thuật độc thoại nội tâm để lột tả sự đau khổ, xót xa, uất ức mà ông Hai phải chịu đựng. Lúc này đây, làng không chỉ là nơi chôn rau cắt rốn nữa, mà là một cái gì đó lớn lao hơn, là lòng tự trọng, là danh dự.

Không chỉ thế, tình yêu làng còn trở thành một nỗi ám ảnh day dứt trong ông, buộc ông phải lựa chọn giữa làng và nước. Nếu lúc trước ông tự hào, ông thao thao bất tuyệt về làng mình bao nhiêu thì bây giờ ông xấu hổ, trốn tránh bất nhiêu. Cái tin đồn quái ác kia trở thành một nỗi ám ảnh, một nỗi sợ vô hình luôn đè nặng lên tâm trí ông. “Một đám đông túm lại, ông cũng để ý, dăm bảy tiếng cười nói xa xa, ông cũng chột dạ. Lúc nào ông cũng nơm nớp tưởng như người ta đang để ý, người ta đang bàn tán đến “cái chuyện ấy”. Cứ thoáng nghe những tiếng Tây, Việt gian, cam-nhông… là ông lủi ra một góc nhà, nín thít. Thôi lại chuyện ấy rồi !” Lẽ thường tình, khi người ta suy nghĩ quá nhiều về một điều gì đó, lúc nào ta cũng có cảm tưởng những người khác cũng như vậy. Thế thì nỗi ám ảnh và lo sợ của ông Hai phải lớn đến chừng nào để ông bị dằn vặt tới vậy ! Lòng yêu làng của ông phải lớn biết chừng nào ! Kim Lân đã diễn tả rất cụ thể và sâu sắc tâm trạng nặng nề ấy, vì bản thân tác giả cũng từng gặp hoàn cảnh tương tự. Ông Hai đã trải qua những giờ phút không thể đau đớn và tủi hổ hơn khi bị mụ chủ nhà nói móc nói máy để đuổi khéo. Người đọc như cảm nhận được từng lời từng chữ của mụ như xoáy sâu vào tình yêu làng vốn đã quá tổn thương của ông. Dù đã dứt khoát đi theo kháng chiến, ông vẫn không thể dứt bỏ tình cảm sâu đậm với làng quê, và vì thế mà ông càng đau xót, tủi hổ hơn.

Bên cạnh tình yêu làng, nhân vật ông Hai còn ghi dấu trong mắt người đọc bằng lòng yêu nước và tinh thần kháng chiến. Ông luôn theo sát tin tức kháng chiến và tự hào về những chiến công mà nhân dân ta đã lập nên. “Ruột gan ông lão cứ múa cả lên, vui quá !” Nhưng đến khi phải lựa chọn giữa làng và nước, tình yêu ấy mới bộc lộ rõ rệt. Dù bị tin đồn làng mình theo Tây dồn vào “tuyệt đường sinh sống”, ông vẫn nhất quyết không trở về làng. Đến đây, ta mới hiểu rõ về con người hay chuyện tưởng chừng rất đơn giản, bộc trực kia. Tình yêu làng giờ đây đã trở thành tình yêu có ý thức, hòa nhập và lòng yêu nước. “Về làm gì cái làng ấy nữa. Về làng là bỏ kháng chiến, bỏ Cụ Hồ.” Nhớ lại những tháng ngày đen tối bị đàn áp xưa kia, ông đã có quyết định rõ ràng, đúng đắn. Là người nông dân chân lấm tay bùn nhưng ông Hai có nhân thức cách mạng rõ ràng : “Làng thì yêu thật nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù.” Nhận thức rất mới này là một nét đặc biệt trong tính cách của ông Hai, đánh dấu sự thay đổi của người nông dân sau Cách mạng Tháng Tám. Ông luôn luôn muốn được giãi bày nỗi lòng ấy của mình. Tuy nói chuyện với đứa con, nhưng thực chất ông đang mượn lời đứa trẻ để bày tỏ tâm sự. Những gì đứa trẻ nói chính là những gì đang dâng trào trong lòng ông mà không nói ra được. “Ừ đúng rồi, ủng hộ cụ Hồ con nhỉ.” Ông Hai nói với đứa con như thể nói với anh em đồng chí, để minh oan cho tấm lòng thành thật của mình, để nỗi khổ tâm trong lòng như vơi đi được đôi phần. Lòng yêu nước của ông thật giản dị nhưng vô cùng chân thành, sâu sắc và cảm động. Chính điều ấy đã giúp ông chịu đựng được tin đồn quái ác về làng mình, vì ông có niềm tin vào cách mạng, vào kháng chiến. Từ đây, ông Hai nói riêng hay người nông dân nói chung, đã nhìn rộng hơn, xa hơn lũy tre làng. Không chỉ yêu làng, trong ông còn có một tình yêu lớn gấp nhiều lần – lòng yêu nước.

Đến khi tin làng chợ Dầu theo giặc được cải chính, tình yêu làng, yêu nước của ông Hai mới được vẽ lên hoàn chỉnh. Ông Hai như sống lại. “Cái mặt buồn thỉu mọi ngày bỗng tươi vui, rạng rỡ hẳn lên.” Một lần nữa, tình yêu làng, yêu nước của ông được thể hiện một cách chân thực, cảm động. Nguồn sinh lực ngày nào lại trở về trong ông. Ông Hai lại là ông Hai xưa. Ông lại nói về làng mình, về “Tây nó đốt nhà tôi rồi, đốt nhẵn !” Niềm vui sướng của ông được thể hiện thật hồn nhiên, chân thật và rất mãnh liệt. Có lẽ không ai trên đời lại đi khoe, đi mừng việc nhà mình bị đốt như thế. Nhưng với ông Hai, điều đó đâu có là gì so với niềm vui khi thanh danh của làng được rửa. Vì sự mất mát ấy cũng là sự hồi sinh của một làng Chợ Dầu mà ông hằng yêu và xứng đáng với tình yêu ấy : làng Chợ Dầu kháng chiến. Tình yêu làng là cơ sở, là biểu hiện hùng hồn nhất của tình yêu nước trong ông Hai. Quả đúng như nhà văn I-li-a Ê-ren-bua đã từng nói : “Lòng yêu nhà, yêu làng xóm, yêu miền quê làm nên lòng yêu tổ quốc.” Nếu so với lão Hạc của Nam Cao hay chị Dậu của Ngô Tất Tố trước Cách mạng tháng Tám – những người nông dân cả cuộc đời đầu tắt mặt tối trong ruộng vườn thì nhân vật ông Hai đã có nhận thức rõ ràng về cách mạng, về kháng chiến. Ông đã nhận ra rằng : Đất nước còn thì làng còn, đất nước mất thì làng cũng mất. Đây không chỉ là sự thay đổi trong suy nghĩ người nông dân, mà còn là suy nghĩ của mỗi người dân Việt Nam thời điểm đó. Họ sẵn sàng hy sinh những cái riêng, những cái nhỏ vì sự nghiệp chung, vì cuộc kháng chiến trường kỳ của dân tộc. Họ không hề quên đi cội nguồn của mình mà gìn giữ nơi ấy ở trong tim, biến thành động lực chiến đấu để giải phóng đất nước, giải phóng quê hương.

Truyện ngắn “Làng” đã xây dựng thành công nhân vật ông Hai, đặc biệt qua tình huống làng Chợ Dầu bị đồn là theo Tây. Nguyễn Minh Châu từng nói : “Tình huống là một loại sự kiện đặc biệt của đời sống, được sáng tạo ra theo hướng lạ hóa. Tại đó, vẻ đẹp nhân vật hiên ra sắc nét, ý nghĩa tư tưởng phát lộ toàn diện.” Kim Lân đã sáng tạo được một tình huống truyện có tính căng thẳng để thử thách nhân vật. Nó đã cho ta thấy chiều sâu của nhân vật ông Hai, những nét tính cách, những chuyển biến trong nhận thức và tính cảm của ông, và hơn hết là tình yêu làng, yêu nước tha thiết. Nhà văn cũng vô cùng thành công trong nghệ thuật miêu tả tâm lí nhân vật, khi thì miêu tả cử chỉ hành động, khi thì độc thoại nội tâm, độc thoại, đối thoại để lột tả tính cách nhân vật. Ngôn ngữ kể chuyện rất linh hoạt, tự nhiên, lúc dềnh dàng, lúc đột ngột tùy theo diễn biến. Bên cạnh đó, tác giả vốn am hiểu cuộc sống nông thôn nên ngôn ngữ của ông Hai là khẩu ngữ, rất bình dị và gần gũi, đậm chất nông dân. Với nhân vật ông Hai, Kim Lân quả thực rất xứng đáng là một cây bút “quý hồ tinh, bất quý hồ đa”.

Nguyễn Đình Thi từng viết rằng : “Tác phẩm nghệ thuật nào cũng xây dựng bằng những vật liệu mượn ở thực tại. Nhưng nghệ sĩ không những ghi lại cái đã có rồi mà còn muốn nói một điều gì mới mẻ. Anh gửi vào tác phẩm một lá thư, một lời nhắn nhủ, anh muốn đem một phần của mình góp vào đời sống chung quanh.” Truyện ngắn “Làng” đã được viết nên từ những điều nhà văn từng trải nghiệm, khắc họa một cách chân thực nhất những tháng ngày đi tản cư của nhân dân miền Bắc trong buổi đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, cũng như những chuyển biến trong nhận thức và tình cảm của họ.. Thông qua nghệ thuật xây dựng tình huống truyện và miêu tả tâm lí, ngôn ngữ nhân vật, Kim Lân đã mang đến cho bạn đọc nhân vật ông Hai với tình yêu làng quê và lòng yêu nước sâu đậm, thiết tha.

Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân - Mẫu 4

Thời chiến là thời kì lòng yêu nước của dân ta được đẩy lên đến đỉnh cao. Nhờ đó, biết bao nhiêu tác phẩm ra đời nhằm ca ngợi sức mạnh ấy của dân tộc. Một trong số những tác phẩm tiêu biểu về tình yêu quê hương làng xóm đặt trong lòng yêu nước đó là truyện ngắn “Làng” của nhà văn Kim Lân. Truyện đã dắt người đọc đi qua những cung bậc cảm xúc chân thực sống động và đa dạng thông qua nhân vật ông Hai – một lão nông yêu làng.

Tình yêu làng của ông Hai được bộc lộ rõ rệt trong giai đoạn đi tản cư. Kháng chiến bùng nổ, ông cùng gia đình hòa vào dòng người rời làng đi tản cư đến một miền quê xa lạ. Từ đó ông phải rời xa ngôi làng yêu dấu đã gắn bó từ thuở ấu thơ. Làng Chợ Dầu là niềm kiêu hãnh của ông, ông tự hào vì ngôi làng đã có biết bao chiến công trong kháng chiến hào hùng chung của đất nước. Ông yêu làng da diết sâu nặng. Ở nơi tản cư, ngày nào ông cùng hoài niệm về những tháng ngày “làm việc cùng anh em”. Ông nhớ làng, nhớ nhà, nỗi nhớ ấy kết thành một nỗi buồn dằn vặt trong tâm trí ông.

Yêu làng nên ông có cái tính khoe làng. Làng Dầu anh hùng cùng tham gia vào cuộc chiến đấu chung của toàn dân tộc “Cả giới phụ lão có cụ râu tóc bạc phơ cũng vác gậy đi tập một hai” trong những ngày dồn dập khởi nghĩa. Cái nhớ làng làm ông bực bội, ít nói ít cười, ông phải “đi chơi cho khuây khỏa”. Ông không biết chữ nên ông coi đó là điều cản trở ông nghe ngóng tin tức, ông tìm mọi cách để biết tin kháng chiến ở mọi nơi và “chẳng sót một câu nào”. Khi nghe tin chiến thắng của quân dân ta, ruột gan ông cứ múa cả lên, ông vui mừng vì thắng lợi của dân tộc đó là biểu hiện của lòng yêu nước sâu sắc.

Càng yêu làng bao nhiêu thì ông càng lo âu dằn vặt bấy nhiêu kể từ khi ông nghe tin làng mình theo giặc. Bao nhiêu tình cảm sâu nặng dường như bộc phát trong tin báo bất ngờ, ông Hai sững sờ, xấu hổ và uất ức: “cổ ông lão nghẹn ắng hẳn lại, da mặt tê rân rân. Ông lão lặng đi tưởng như không thở được”. Ông cố gắng không tin, không muốn tin vì kỉ niệm về làng trong ông đều là những ngày tháng chiến đấu hào hùng tốt đẹp của dân làng. Nhưng rồi những nhân chứng sống là những người tản cư đã kể rành rọt quá, lại khẳng định họ “vừa ở dưới ấy lên”. Điều đó làm ông không thể không tin. Niềm tự hào về làng thế là sụp đổ tan tành. Ông không ngờ ngôi làng mà ông yêu quý nhất đã quay quay lưng với Tổ quốc. Tuy ông không phải là người phản bội Tổ quốc, nhưng ông cảm thấy xấu hổ trước bà con khi ông cũng là một con dân làng Chợ Dầu. Ông Hai đau khổ vì nơi mà ông yêu thương nhung nhớ nhất cũng chính là nơi làm ông mất đi niềm tin, hạnh phúc và sự tự hào. Từ khi nghe được tin, ông không ngừng ám ảnh day dứt. Nghe tiếng người người chửi bọn Việt gian, ông xấu hổ “cúi gằm mặt mà đi”, về đến nhà thì “nước mắt ông lão cứ giàn ra”. Ông tức giận khi phải mang nỗi nhục bán nước. Thế nhưng cũng chính lúc này, nét đẹp tâm hồn của ông Hai bộc lộ rõ hơn bao giờ hết. Tình huống ấy đã buộc ông Hai phải chọn lựa quê hương hay tổ quốc. Lời nói của đứa con thơ đã cảnh tỉnh ông: “Không thể được! Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây mất rồi thì phải thù”. Tình yêu làng dẫu có tha thiết đến đâu cũng không thể sánh bằng tình yêu đất nước, yêu đồng bào dân tộc và niềm tin vào kháng chiến và Cụ Hồ.

Tình yêu làng, yêu nước của ông Hai được thể hiện ra ngoài rõ rệt khi nghe tin cải chính về ngôi làng Chợ Dầu anh hùng kháng chiến . Ông Hai vui sướng và “rạng rỡ hẳn lên” mặc dù nhà ông đã bị “đốt nhẵn”. Đối với người nông dân, căn nhà là cơ nghiệp của cả một cuộc đời, vậy mà ông sung sướng khi “Tây nó đốt nhà tôi rồi bác ạ” một cách tự hào như thể đó là tin mừng. Cái nhà bị đốt như thể càng minh chứng thêm cho việc làng Dầu kiên cường chống giặc. Niềm tự hào vui sướng về ngôi làng đã quay trở lại trong ông. Có thể nói, lòng yêu làng của ông Hai là cội nguồn của lòng yêu nước.

Đọc truyện, ta như được đắm chìm vào từng mạch cảm cảm xúc của nhân vật ông Hai. Nhà văn Kim Lân đã miêu tả diễn biến nội tâm nhân vật một cách chi tiết và sắc nét. Nhân vật ông Hai đã gây được ấn tượng mạnh mẽ cho người đọc bởi sự ám ảnh, day dứt cùng niềm vui sướng mãnh liệt, tất thảy đó là những cung bậc cảm xúc chân thực mà lão nông yêu nước ấy đã trải qua. Phải thấu hiểu những người nông dân hiền lành ấy đến nhường nào thì nhà văn Kim Lân mới nhập tâm vào từng cử chỉ suy nghĩ và cảm xúc của nhân vật đến như thế. Cùng với hình thức trần thuật đối thoại cũng như độc thoại, nhân vật ông Hai đã từng bước đi vào lòng người đọc và đánh thức lòng yêu nước trỗi dậy trong mỗi người.

Qua truyện ngắn “Làng” và nhân vật ông Hai, Kim Lân đã khắc hoạ thành công hình tượng người nông dân chất phác luôn yêu làng, yêu nước và tin tưởng vào kháng chiến. Những suy nghĩ tình cảm của họ được phản ánh một cách chân thực và mang tính giáo dục sâu sắc cho độc giả. Đọc truyện, ta càng thêm khâm phục và yêu thương biết bao tình yêu nước và sự hy sinh cao cả của những thế hệ đi trước và từ đó tự rút ra bài học quý giá cho bản thân.

Suy nghĩ về nhân vật ông Hai trong truyện ngắn Làng của Kim Lân - Mẫu 5

Truyện ngắn làng là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của nhà văn Kim Lân. Lấy bối cảnh những ngày đầu cuộc kháng chiến chống Pháp, qua nhận vật ông Hai, nhà văn Kim Lân thể hiện một cách chân thực tình yêu làng, yêu nước của người nông dân Việt Nam.

Có thể nói, ông Hai yêu cái làng chợ Dầu như máu thịt của mình. Ông yêu tất cả những gì thuộc về làng, từ cành cây ngọn cỏ, con đường đi đến cái nếp sống, cái tinh thần của làng. Đối với ông, làng là tất cả, không có gì có thể đánh đỏi được tình yêu làng trong tâm hồn ông.

Tình yêu làng của nhân vật ông Hai ít nhiều thay đổi theo thời gian nhưng trước sau như một. Ông lúc nào cũng gắn bó, chung thủy với cái làng chợ Dầu thân thiết của mình. Trước cách mạng, mỗi lần đi đâu xa, nói về làng của mình. Ông tự hào làng có cái sinh phần của viên tổng đốc lớn nhất vùng, rồi ca ngợi cái con đường lát đá, những ngôi nhà tường vôi mái ngói, cái giếng làng,… trong sự hãnh diện ghê gớm lắm..

Thực hiện lệnh của Ủy ban kháng chiến, ông phải đi tản cư, lòng ông cứ băn khoăn chẳng muốn rời xa cái làng thân yêu ấy một tý nào bởi vì theo lão “quê cha đất tổ một lúc rứt ruột bỏ đi làm gì mà không đau xót”. Xa làng rồi, ông Hai mới cảm thấy nhớ làng Dầu biết chừng nào. Tình yêu làng như ngọn lửa cứ cuồn cuộn cháy trong ông.

Dõi theo tác phẩm, ta thấy ở nhân vật ông Hai, tình yêu làng của ông thống nhất, hòa quyện với tình cảm yêu mến, thủy chung đối với cuộc cách mạng của dân tộc, đối với đất nước. Bản thân ông luôn tự hào làng của mình là làng kháng chiến, những người dân trong làng từ già đến trẻ đều là những con người có tinh thần quả cảm và bất khuất.

Chính lòng yêu nước đã làm cho ông cảm thấy vui mừng, tự hào về tinh thần dũng cảm cũng như thành tích chiến đấu của đồng bào dân tộc mà ông theo dõi được trên báo chí hằng ngày: “Ruột gan ông cứ múa cả lên…”

Quá đỗi hãnh diện về truyền thống anh hùng của làng và lòng yêu nước sâu sắc vốn có của mình, ông Hai đã quá bàng hoàng, sửng sốt, đau đớn trước cái tin chợ Dầu theo giặc. Thế là bao nhiêu niềm kiêu hãnh về truyền thống bất khuất của người làng chợ Dầu, bao nhiêu mơ ước được quay về làng bỗng hoàn toàn sụp đổ. Ông đau khổ như vừa lạc vào một vùng bóng tối dày đặc, nhục nhã và đâu đớn vô cùng.

Lúc trong cùng cực tủi hổ, bế tắc và tuyệt vọng trước niềm tin, niềm tự hào và hãnh diện của mình bỗng chốc sụp đổ, ông Hai chỉ còn biết giải tỏa u uất cùng con nhỏ bởi ông biết trẻ con vốn ngây thơ và trung thực. Qua những lời nói hồn nhiên của thằng Húc và cái tinh thần của con, ông Hai tìm lại được niềm động viên an ui, tìm thấy điểm tựa tinh thần để cuối cùng, ông khẳng định: “Làng thì yêu thật, nhưng làng theo Tây thì phải thù”. Ông đứng hẳn về phía cách mạng, ủng hộ cụ Hồ, ủng hộ cuộc kháng chiến của dân tộc.

Cho đến khi cái tin oan nghiệt : “làng chọ Dầu làm Việt gian cả rồi” được cải chính, nỗi oan của người làng chợ Dầu được minh giải, nỗi dằn vặt trong lòng ông hai cùng biết bao khổ sở, tủi nhục được gỡ bỏ, ông hai như sống lại một cuộc đời mới. Dẫu làng ông bị cháy, nhà ông bị đốt, ông vẫn rất vui. Thì ra, đến đây người đọc chợt hiểu ông Hai yêu làng là yêu cái tinh thần kháng chiến của làng, của người chợ Dầu. Ông yêu người chợ Dầu anh hùng, quyết liệt kháng chiến chống giặc bảo vệ làng, bảo vệ đất nước.

Chi tiết kể về ông Hai cứ múa tay lên mà khoe nhà ông bị đốt nhẵn… Mới đọc chi tiết này, ta thấy dường như vô lý bởi ngôi nhà là cả một tài sản quá lớn đối với những người nông dân. Hơn thế nó còn gắn với bao kỷ niệm vui buồn rất thiêng liêng của mỗi con người. Mất nó ai mà không xót xa đau đớn? Nhưng ông Hai lại có cử chỉ “múa tay lên để khoe”, đó là biểu hiện của tâm trạng sung sướng đến tột độ. Ông Hai vui sướng vì nhà bị tây đốt là bằng chứng hùng hồn rằng làng Dầu của ông vẫn theo kháng chiến, theo cách mạng, đó là một làng quê anh hùng, đứng dậy chống thực dân Pháp. Chắc hẳn mất nhà, ông Hai cũng đau lắm chứ, xót xa lắm chứ. Nhưng dù thế nào thì nhà còn có thể xây dựng lại được, song danh dự của làng đâu dễ lấy lại? Ông đã quên đi sự mất mát riêng để tự hào sung sướng trong vẻ đẹp, sức mạnh chung của làng quê, đất nước.

Niềm vui, nỗi buồn của ông Hai luồn gắn liền với vận mệnh của Làng Dầu. Thế mới biết ông Hai yêu làng quê tha thiết đến chừng nào! Tình yêu làng quê được mở rộng, thống nhất, hoà quyện trong tình yêu tổ quốc thật sâu nặng và thiêng liêng. Từ tình yêu làng thiết tha, chuyển biến lên thành tình yêu nước sâu đậm. Tình yêu nước được đặt cao hơn tình làng. Đây là nét đẹp truyền thống mang tinh thần thời đại. Ông Hai là hình ảnh tiêu biểu của người nông dân trong thời kì kháng chiến chống Pháp. Chính họ, những người nông dân yêu nước ấy đã góp phần không nhỏ vào những kỳ tích oan hùng, những thắng lợi rực rỡ trong cuộc trường chinh giữ nước vĩ đại của dân tộc Việt Nam.

Sự vận động tình yêu làng, yêu nước trong tình cảm của nhân vật ông Hai (và cũng là của người lao động Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp), đi từ sự tự phát (trước cách mạng, họ có tình yêu làng, yêu nước một cách tự nhiên) đến tự giác (họ yêu làng, yêu nước trên ý thức nhận rõ kẻ thù xâm lược. Họ một lòng đi với cách mạng, ủng hộ cụ Hồ, ủng hộ đường lối và chính sách của Chính phủ kháng chiến, quyết một lòng đứng về phía cách mạng.

Kim Lân đã rất thành công khi xây dựng nhân vật ông hai, một lão nông thực thà, chất phác, yêu làng, yêu nước. Chuyển biến từ tình yêu làng thiết đến tình yêu nước sâu đậm, ủng hộ cụ Hồ, ủng hộ kháng chiến; từ tình yêu làng tự phát đến tình nước tự giác của nhân vật ông Hai hay cũng chính là những chuyển biến mới trong tình cảm của người nông dân Việt Nam thời kì đầu cuộc kháng chiến chống Pháp.

KhoaHoc mời các bạn cùng tham khảo chuyên mục Văn mẫu lớp 9 bao gồm các bài văn mẫu hay kèm theo dàn ý chi tiết cho tất cả các đề bài có trong môn Ngữ văn 9.

Cập nhật: 29/12/2022
Danh mục

Tài liệu hay

Toán Học

Soạn Văn

Tiếng Anh

Vật Lý

Hóa Học

Sinh Học

Lịch Sử

Địa Lý

GDCD

Khoa Học Tự Nhiên

Khoa Học Xã Hội