Cái nhàn của người cư sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ "Nhàn".
Đề bài: Cái nhàn của người cư sĩ Nguyễn Bỉnh Khiêm trong bài thơ "Nhàn".
Bài làm:
Nguyễn Bỉnh Khiêm là người có học vấn uyên thâm, từng làm quan nhưng vì cảnh quan trường nhiều bất công nên ông đã cáo quan về ở ấn. Ông còn được biết đến là nhà thơ nổi tiếng với hai tập thơ “Bạch Vân am thi tập” và “Bạch Vân quốc ngữ thi”. “Nhàn” là bài thơ Nôm nằm trong tập “Bạch Vân quốc ngữ thi”. Nhan đề bài thơ là do người đời sau đặt. Bài thơ như lời tâm sự nhẹ nhàng mà sâu sắc, khẳng định quan niệm sống hòa hợp với tự nhiên, giữ được cốt cách thanh cao, khí tiết cương trực, vượt lên trên những danh lợi tầm thường. Xuyên suốt bài thơ là một tư thái ung dung, điềm tĩnh của tác giả. Có thể xem đây là điểm nhấn, là tinh thần chủ đạo của bài thơ. Chỉ với tám câu thơ đường luật nhưng tác giả đã mang đến cho người đọc một cuộc sống an nhàn nơi đồng quê êm ả.
Mở đầu bài thơ là những hình ảnh quen thuộc của làng quê Bắc Bộ, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã giới thiệu cho mọi người về cuộc sống nhàn hạ, thảnh thơi của mình:
“Một mai một cuốc, một cần câu
Thơ thẩn dầu ai vui thú nào”
Với phép lăp “một” - “một”, Nguyễn Bỉnh Khiêm đã vẽ lên trước mắt người đọc một khung cảnh bình dị, đơn sơ nơi quê nghèo, dù một mình nhưng không hề đơn độc. Hai câu thơ toát lên sự thanh tịnh của tâm hồn và êm đềm của thiên nhiên ở vùng quê Bắc Bộ. “Một cuốc”, “một cần câu” gợi lên sự bình dị, mộc mạc của một người nông dân chất phác. Hình ảnh Bạch Vân cư sĩ hiện lên là một lão nông an nhàn, thảnh thơi với thú vui tao nhã là câu cá và làm vườn. Đây có thể nói là cuộc sống đáng mơ ước nhưng không phải ai cũng có thể dứt bỏ được chốn quan trường về với đồng quê như thế này. Động từ “thơ thẩn” ở câu thơ thứ hai đã tạo nên nhịp điệu khoan thai, êm ái cho người đọc. Bất chấp vòng danh lợi ngoài kia, Nguyễn Bỉnh Khiêm vẫn ung dung với thú vui của mình, vẫn thong thả sống hòa nhập cùng thiên nhiên tươi đẹp.
Đến hai câu thơ thực, nhà thơ lại bày tỏ quan niệm của mình về cái “khôn – dại” ở đời:
“Ta dại ta tìm nơi vắng vẻ
Người khôn người đến chốn lao xao”
Đây có thể xem là tuyên ngôn sống của tác giả những năm tháng sau khi cáo quan về ở ẩn. Ông tự nhận mình “dại” khi tìm nơi vắng vẻ đến sống, nhưng đây là cái “dại” khiến nhiều người ghen tỵ và ngưỡng mộ. Nguyễn Bỉnh Khiêm rất khéo léo trong việc dùng từ ngữ. Ông bảo rằng những người chọn chốn quan trường là những người “khôn”. Một cách khen rất tinh tế, khen mà chê, cũng có thể là khen mình và chê người. Tứ thơ ở hai câu này hoàn toàn đối lập nhau từ ngôn ngữ đến dụng ý “dại” – “khôn”, “vắng vẻ” – “lao xao”. Nguyễn Bỉnh Khiêm tìm về nơi vắng vẻ để ở có phải là trốn tránh trách nhiệm với nước hay không? Với thời thế như vậy giờ và với cốt cách của ông thì “nơi vắng vẻ” mới thực sự là nơi để ông sống đến suốt cuộc đời. Ông không muốn bị quấn vào vòng lợi danh, vào dòng nước đục chốn quan trường nhiễu nhương. Dù chỉ sống nơi quê nghèo “vắng vẻ”, ông vẫn cảm thấy vui thích hơn chốn quan trường. Có thể thấy, đây quả là một cốt cách thanh cao, một tâm hồn đáng ngưỡng mộ.
Hai câu luận đã gợi mở cho người đọc về cuộc sống bình dị, giản đơn và thanh cao của người ẩn sĩ:
“Thu ăn măng trúc đông ăn giá
Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao”
Một cặp câu đã lột tả hết tất cả cuộc sống sinh hoạt và thức ăn hằng ngày của “lão nông nghèo”. Mùa nào đều tương ứng với thức ăn đấy, tuy không có sơn hào hải vị nhưng những thức ăn có sẵn này lại đậm đà hương vị quê nhà, khiến tác giả an phận và hài long. Mùa thu có măng trúc ở trên rừng, mùa đông ăn giá. Chỉ với vài nét chấm phá Nguyễn Bỉnh Khiêm đã “khéo” khen thiên nhiên đất Bắc rất hào phòng, đầy đủ thức ăn. Đặc biệt câu thơ “Xuân tắm hồ sen hạ tắm ao” phác họa vài đường nét nhẹ nhàng, đơn giản nhưng toát lên sự thanh tao không ai sánh được. Một cuộc sống dường như chỉ có tác giả và thiên nhiên, mối quan hệ tâm giao hòa hợp nhau.
Nhãn quan tỏ tường và cái nhìn thông tuệ của nhà thơ thể hiện tập trung nhất ở hai câu thơ cuối. Nhà thơ tìm đến cái “say” là để “tỉnh” và ông tỉnh táo hơn bao giờ hết:
“Rượu đến cội cây ta sẽ uống
Nhìn xem phú quý tựa chiêm bao”
Hai câu thơ này là triết lý và sự đúc rút của quan trạng trong thời gian ở ẩn. Đối với một con người tài hoa, có trí tuệ lớn như thế này thì thực sự phú quý không hề là giấc chiêm bao. Ông từng đỗ Trạng nguyên thì tiền bạc, của cải đối với ông thực ra mà nói không hề thiếu nhưng đó lại không phải là điều ông nghĩ đến và tham vọng. Với ông phú quý chỉ “tựa chiêm bao”, như một giấc mơ, khi tỉnh dậy thì sẽ tan, sẽ hết mà thôi. Có thể xem đây chính là cách nhìn nhận sâu sắc, đầy triết lý nhất. Với một con người thanh tao và ưa sống an nhàn thì phú quý chỉ như hư vô mà thôi, ông yêu nước nhưng yêu theo một cách thầm lặng nhất. Cách so sánh độc đáo đã mang đến cho hai câu kết một tứ thơ hoàn hảo nhất.
Như vậy với tám câu thơ, bài thơ “Nhàn” đã khiến người đọc ngưỡng mộ và khâm phục cốt cách, tinh thần và phong thái của ông. Là một người yêu nước, thích sự thanh bình và coi trọng cốt cách xứng đáng là tấm gương đáng học hỏi. Bài thơ đường luật kết cấu chặt chẽ, tứ thơ đơn giản nhưng hàm ý sâu xa đã làm toát lên tâm hồn và cốt cách của ẩn sĩ. Có thể nói, cho đến bây giờ, phong thái sống của ông vẫn được rất nhiều người ngưỡng mộ.
=> Trên đây là bài viết tham khảo. Tuy nhiên, nếu bạn học sinh nào muốn viết theo ý mình thì KhoaHoc có dàn ý để các bạn dễ viết bài.
Mở bài:
Giới thiệu tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm và bài thơ “Nhàn”
Thân bài:
- 2 câu đề:
- Số từ“một” lặp lại ba lần
- Nhịp điệu trong hai câu thơ đầu thểhiện sựthong thả, ung dung
- Gợi lên cuộc sống thanh đạm, nhàn nhã, và chan hòa cùng thiên nhiên.
- Tâm trạng của một kẻsĩ “an bần lạc đạo”, vượt lên trên nỗi lo lắng bon chen của đời thường đểtìm đến cái thú vui của ẩn sĩ.
- 2 câu thực
- “Nơi vắng vẻ”: nơi thôn quê yên tĩnh
- “Chốn lao xao”: nơi thành thị, chốn quan trường.
- Quan niệm “khôn” và “dại": -> trái ngược với quan niệm thông thường.
- Đối lập giữa “nơi vắng vẻ” với “chốn lao xao” -> khẳng định cách sống nhàn cư ẩn dật, xa lánh chôn vinh hoa, chạy theo vật chất tầm thường. -> thế hiện sự kiên định đối với lối sống của mình, mỉa mai thói đời, thói người đời và bộc lộ cái cao ngạo của kẻ sĩ.
- 2 câu luận
- Bức tranh tứ bình về cuộc sống 4 mùa -> lối sinh hoạt giản dị.
- Lối sống thuận theo tự nhiên , hòa hợp với thiên nhiên, mùa nào thức ấy, bình dị mà không kém phần thanh cao.
- 2 câu kết
- Sử dụng điển tích
- Thái độ coi thường phú quý, danh lợi: phú quý, danh lợi chỉ như một giấc mơ dưới gốc hòe, tiền bạc công danh cũng chỉ là phù du, hư vô. -> cái nhìn của một bậc đại nhân, đại trí.
Kết bài:
Khẳng định giá trị của tác phẩm và phong thái sống của nhà thơ Nguyễn Bỉnh Khiêm.
Xem thêm bài viết khác
- Phân tích đặc điểm của ngôn ngữ nói trong đoạn văn
- Soạn văn bài: Viết bài làm văn số 3: Văn tự sự
- Hãy vẽ sơ đồ các bộ phận và sự phát triển của văn học Việt Nam
- Phân tích bài thơ “Nhàn” của tác giả Nguyễn Bỉnh Khiêm
- Nội dung chính bài Văn bản
- Cảnh ở đây có sự hài hòa giữa âm thanh và màu sắc, cảnh vật và con người. Hãy phân tích và làm sáng tỏ
- Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Lời tiễn dặn (Trích Tiễn dặn người yêu)
- Nhập vai Uy-lít-xơ, anh (chị) hãy kể lại cảnh nhận mặt ấy.
- Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Cảm xúc mùa thu
- Dựa vào kiến thức được trình bày trong mục II, lập bảng tổng kết về tình hình phát triển của văn học Việt Nam thời trung đại theo mẫu
- Dấu hiệu của phong cách ngôn ngữ sinh hoạt biểu hiện trong câu ca dao
- Trình bày các đặc trưng cơ bản của văn học dân gian