Nội dung chính bài Tam đại con gà
Phần tham khảo mở rộng
Câu 1: Hãy nêu ngắn gọn những nội dung chính và chi tiết kiến thức trọng tâm bài học "Tam đại con gà"
Bài làm:
A. Ngắn gọn những nội dung chính
1. Giới thiệu chung
- Thể loại: Truyện cười là những truyện dân gian ngắn, có kết cấu chặt chẽ, kết thúc bất ngờ, kể về những sự việc, hành vi trái tự nhiên của con người, có tác dụng gây cười, nhằm mục đích giải trí và phê phán xã hội.
- Tác phẩm Tam đại con gà thuộc thể loại truyện cười trào phúng. Đây là thể loại truyện cười được sáng tác với mục đích phê phán. Đối tượng phê phán phần lớn là các nhân vật thuộc tầng lớp trên trong xã hội nông thôn Việt Nam xưa (như: bọn quan lại bất tài, tham nhũng…).
2. Phân tích văn bản
a. Mâu thuẫn trái tự nhiên ở nhân vật thầy đồ
- Tình huống 1: Dạy học trò đọc chữ
- Gặp chữ “kê” trong sách Tam thiên tự mà không biết là chữ gì → Dốt đến mức một chữ trong sách vỡ lòng cũng không biết.
- Khi học trò hỏi gấp: thầy nói liều “Dủ dỉ là con dù dì” → Liều lĩnh, sĩ diện giấu dốt.
- Thầy cũng khôn, sợ sai bảo học trò đọc khẽ → Sợ người khác biết cái sai của mình.
- Khi học trò hỏi gấp, thầy đồ muốn biết đúng sai: Tìm đến thổ công, xin ba đài âm dương, được cả ba, đắc ý bệ vệ ngồi lên giường bảo trẻ đọc to → Dốt nhưng tự cho là giỏi, cái dốt đã khuếch đại và nâng lên.
- Tình huống 2: Đối mặt với ông chủ nhà hay chữ:
- Khi ông chủ nhà nghe đọc sai nên trách thầy đồ → vô tình thầy biết đó là chữ “kê”.
- Suy nghĩ của thầy: “Mình đã dốt mà thổ công nhà nó cũng dốt nữa” → Tự nhận thức sự dốt nát của mình.
- Thầy đồ đã tiếp tục chống chế để giấu dốt: Muốn dạy đến Tam đại con gà, giải thích: “Dủ dỉ là con dù dì, dù dì là chị con công, con công là ông con gà” → giải thích vô lí: gỡ bí một cách liều lĩnh để giấu dốt.
⇒ Mâu thuẫn trái tự nhiên: dốt và giấu dốt thì càng che đậy thì bản chất càng lộ tẩy.
⇒ Phê phán thói giấu dốt. Truyện ngầm ý khuyên răn mọi người không nên giấu dốt, hãy mạnh dạn học hỏi không ngừng.
B. Phân tích chi tiết nội dung bài học
1. Tóm tắt nội dung văn bản
Xưa có anh học trò học hành dốt nát nhưng lại hay khoe chữ. Có người tưởng anh ta hay chữ thật, mới đón về dạy trẻ. Một hôm, dạy đến chữ “kê”, học trò hỏi mà không biết, đánh nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”. Thầy sợ nhỡ sai, người nào biết thì xấu hổ, dặn học trò đọc khẽ và đến bàn thờ thổ công xin ba đài âm dương. Xin ba đài được cả ba, thầy lấy làm đắc chí, hôm sau bảo trẻ đọc to lên. Người bố nghe được, phát hiện ra, thầy liền chống chế bằng cách lí sự cùn: dạy thế là để biết đến tam đại con gà.
2. Phân tích nội dung chi tiết văn bản
a. Giới thiệu nhân vật và mâu thuẫn trái tự nhiên
- Giới thiệu nhân vật chính: anh học trò dốt nát nhưng thích khoe chữ, “đi đâu cũng lên mặt văn hay chữ tốt”
- Có người mời anh ta về dạy trẻ
→ Mâu thuẫn trái tự nhiên: dốt nhưng dấu dốt, thích khoe chữ.
2. Tình huống mâu thuẫn gây cười
- Tình huống 1:
- Gặp chữ “kê”, thấy mặt chữ nhiều, không biết chữ gì, học trò hỏi gấp, thầy nói liều: “Dủ dỉ là con dù dì”
- Sợ sai, bảo học trò đọc khẽ
- Thầy khấn thầm xin ba đài âm ở bàn thờ thổ công
- Thổ công cho ba đài âm, thầy lấy làm đắc chí, hôm sau ngồi bệ vệ trên giường, bảo trẻ đọc cho to.
→ Thầy đồ vừa dốt vừa mê tín, lừa bịp trẻ con. Tiếng cười bật ra từ chính sự ngu dốt, sĩ diện, thích khoe khoang của thầy đồ. Đồng thời, qua đó phên phán sự dốt nát của thầy đồ.
- Tình huống 2:
- Khi bị bố học trò phát hiện, chất vấn, suy nghĩ của thầy đồ: “Mình đã dốt, thổ công nhà nó cũng dốt nữa” → Lời tự nhủ hài hước, biết mình dốt nhưng không chịu thừa nhận.
- Lời ngụy biện của thầy: Dạy cho cháu biết đến tận tam đại con gà, “Dù dì là chị con công, con công là ông con gà” để gỡ bí, lí sự cùn → Tiếng cười bật lên từ sự vô lí, láu cá của thầy đồ.
⇒ Thầy đồ bộc lộ rõ bản chất là một kẻ dốt nát nhưng thích giấu dốt, thích khoe khoang, láu cá, sĩ diện.
3. Tổng kết
- Nội dung: Qua hình ảnh thầy đồ trong truyện Tam đại con gà, truyện phê phán một tật xấu trong nội bộ nhân dân, phê phán những người dốt mà không chịu học hỏi, dốt mà cứ cố tình che đậy sự dốt nát của mình.
- Nghệ thuật: Xây dựng những yếu tố mâu thuẫn bất ngờ, phi logic để tạo tiếng cười, sử dụng cử chỉ, hành động, hình thức chơi chữ..
- Ý nghĩa: Truyện vừa đem lại tiếng cười giải trí cho con người, đồng thời mang lại bài học sâu sắc, mỗi người phải không ngừng học hỏi để nâng cao hiểu biết của mình, không được dấu dốt, sĩ diện.
Xem thêm bài viết khác
- Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Đọc Tiểu Thanh Kí
- Phân tích vai trò của mỗi đoạn thơ (đề, thực, luận, kết) đối với chủ đề toàn bài.
- Nội dung chính bài Lập kế hoạch cá nhân
- Nội dung chính bài Luyện tập viết đoạn văn tự sự
- Nguyễn Du thương xót và đồng cảm với người phụ nữ có tài văn chương mà bất hạnh. Điều đó nói gì về tấm lòng của nhà thơ?
- Dùng hiểu biết của mình để làm sáng tỏ nhận định: Văn học Việt Nam thể hiện đời sống tâm tư, tình cảm, quan niệm về chính trị, đạo đức, thẩm mỹ của con người Việt Nam
- Soạn văn bài: Nhưng nó phải bằng hai mày
- Mị Châu bị Rùa Vàng kết tội là giặc, lại bị vua cha chém đầu, nhưng sau đó, máu nàng hóa thành ngọc trai, xác nàng hóa thành ngọc thạch. Hư cấu như vậy, người xưa muốn bày tỏ thái độ và tình cảm như thế nào đối với nhân vật Mị Châu và muốn gửi gắm điều gì
- Trong lời đáp của mình, Xi-ta đã nhấn mạnh như thế nào về: Sự khác biệt giữa tư cách, đức hạnh của nàng và loại phụ nữ tầm thường thấp kém?
- Hãy chỉ ra ý nghĩa phê phán của truyện
- Đoạn trích sử dụng rất nhiều câu thơ có dùng phép điệp (từ ngữ, hình ảnh, kiểu câu). Hãy tìm và nhận xét giá trị biểu cảm của những câu thơ đó
- Chỉ ra điểm khác nhau giữa câu thơ đầu trong nguyên tác chữ Hán (qua phần dịch nghĩa) với câu thơ dịch. Có gì đáng lưu ý về không gian, thời gian trong đó con người xuất hiện? Con người ở đây mang tư thế, dáng vóc như thế nào?