Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Phân tích bài thơ Tỏ lòng của Phạm Ngũ Lão
Bài làm:
Nhận xét về Phạm Ngũ Lão, sách Đại việt sử ký toàn thư viết: “Ngũ Lão xuất thân trong hàng quân ngũ nhưng rất thích đọc sách, là người phóng khoáng, có chí lớn, thích ngâm thơ, tựa như không để ý đến việc võ binh. Nhưng quân ông chỉ huy, thực là đội quân phụ tử, hễ đánh là thắng”. Dường như trong những vần thơ của ông cũng mang theo lý tưởng, khát vọng được lập công danh với đời, điều đó đã được thể hiện thông qua tác phẩm “Tỏ lòng”.
Bài thơ Tỏ lòng khắc họa vẻ đẹp của con người có sức mạnh, có lí tưởng, khát vọng, nhân cách cao cả cùng khí thế hào hùng trong hào khí Đông A. Câu một đã mở ra cho chúng ta hình ảnh một vị tướng, một vị chỉ huy quân đội trấn giữ biên cương, sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc:
“Hoành sóc giang sơn kháp kỷ thu,
Tam quân tì hổ khí thôn ngưu.”
Dịch nghĩa:
Cầm ngang ngọn giáo gìn giữ non sông đã mấy thu,
Ba quân như hổ báo, khí thế hùng dũng làm lu mờ cả sao Ngưu
Trước hết độc giả thấy được hình ảnh của nhân vật trữ tình trong tư cách một trang nam nhi dày dạn trận mạc. Tư thế là tư thế của chiến binh: hoành sóc (cầm ngang ngọn giáo): tư thế ung dung đĩnh đạc, chủ động, hùng dũng, hiên ngang sẵn sàng chiến đấu bảo vệ tổ quốc. Đó là tư thế của con người sôi sục ý chí chiến đấu chống kẻ thù xâm lược. Hình ảnh vị tướng hùng dũng, tư thế hiên ngang với sứ mệnh cao cả là trấn giữ giang sơn, giữ yên bờ cõi. Đây là hình ảnh biểu trưng của tinh thần xông pha, của tư thế làm chủ chiến trường, của phong độ lẫm liệt hiên ngang giữa trời đất. Tầm vóc của chủ thể trữ tình này hiện lên là con người vũ trụ trong không gian vô cùng, thời gian vô tận. Từ ngưu trong câu thơ có hai nghĩa: con trâu và sao Ngưu. Nhưng có vẻ hình ảnh “ba quân khí thế át cả sao Ngưu” giàu chất thơ hơn. Người võ tướng với tư thế cầm ngang ngọn giáo, mà ngọn giáo ấy đựơc đo bằng chiều kích của giang sơn thì ắt hẳn khí thế của ba quân phải xung thiên làm mờ cả sao Ngưu chứ không nên hiểu một cách quá cụ thể: ba quân khí mạnh nuốt trôi trâu sẽ làm giảm đi vẻ đẹp của câu thơ. Hai câu thơ hô ứng, quyện hòa, tôn cao nhau lên. Thủ pháp cường điệu, phóng đại đã thật sự dựng dậy được không khí đặc trưng của một thời kỳ lịch sử mà khi đó nhân vật trung tâm của đời sống đất nước là những con người phi thường với quyết tâm“Sát Thát”. Hai câu thơ đầu có giọng điệu khẳng định đanh thép ngợi ca chủ nghĩa anh hùng của quân đội nhà Trần và của dân tộc trong cuộc kháng chiến chống quân xâm lược Mông - Nguyên. Có thể khẳng định, hai câu thơ đầu chính là niềm tự hào của tác giả về vị thế bản thân và sức mạnh quân đội.
Bài thơ không dừng lại ở việc phác dựng những đường nét lớn của bối cảnh cũng như dáng dấp của những chiến binh mà điều quan trọng hơn là nó cho ta thấy được hoài bão, hùng tâm tráng khí của nhân vật trữ tình.
“ Nam nhi vị liễu công danh trái”
Vào thời trung đại, trả nợ công danh là khát vọng, hoài bão, lẽ sống của hầu hết trang nam tử. Có hai con đường trả nợ công danh: dùi mài kinh sử để đỗ đạt làm quan hoặc xông pha trận mạc chiến đấu, lập công báo quốc. Điều này là do chịu sự ảnh hưởng của tư tưởng Nho gia. Với Phạm Ngũ Lão, ý thức được thời buổi loạn lạc, ông chọn cho mình con đường xông pha nơi chiến trường. Ông xem công danh là cái nợ mình còn vương. Chưa trả không có nghĩa là bất lực, bất tài không lập được chiến công mà chỉ là thời cơ chưa tới. Cái “nợ công danh” ấy, chỉ cần cơ hội đến, ông sẽ sẵn sàng chặt đứt. Thông qua ý thức trả nợ công danh hiện lên khát vọng cháy bỏng, mãnh liệt của đáng nam nhi một lòng muốn báo đền nợ nước.
“Tu thính nhân gian thuyết Vũ hầu”
“Vũ hầu” ở đây ý chỉ Khổng Minh Gia Cát Lượng, người giúp Lưu Bị lập nên nhà Thục Hán. Đây là con người tận trung đã cống hiến cả cuộc đời cho nhà Thục và là một biểu tượng về chí làm trai. Phạm Ngũ Lão xấu hổ khi nghe chuyện Vũ hầu vì trước hết, ông thấy mình chưa lập được công danh, chưa trả xong nợ cho quê hương, đất nước. Mặt khác, ông thấy “thẹn” khi đứng trước tấm gương sáng cả về nhân cách lẫn tài năng của Gia Cát Lượng. Cái “thẹn” ấy là sự kính trọng đối với Vũ hầu đồng thời cũng là khát vọng của trang nam tử muốn noi bước người xưa tận trung báo quốc, trả nợ công danh. Nếu chưa lập được công danh thì nói thẹn là điều dễ hiểu. Nhưng khi đã dốc hết lòng cho giang sơn gấm vóc mà vẫn nói thẹn thì phải thấy khát vọng của nhân vật trữ tình lớn đến độ nào. Hai câu thơ sau đã cho ta thấy được khát vọng, hoài bão của bậc anh hùng và nỗi “thẹn” của người quân tử. Cách hành xử đầy tinh thần nhân văn ta còn bắt gặp trong thơ Cao Bá Quát:
“Nhất sinh đê thủ bái mai hoa”
(Cả đời chỉ biết cúi đầu bái lạy hoa mai).
Hay trong thơ Nguyễn Khuyến:
“Nghĩ ra lại thẹn với ông Đào”
hay:
“Ơn vua chưa chút đáp đền
Cúi trông thẹn đất, ngửa trông thẹn trời”
Về nghệ thuật, bài thơ có sử dụng những hình ảnh mang vẻ đẹp vũ trụ kì vĩ, tráng lệ, có tính chất thẩm mỹ; ngôn từ ngắn gọn, hàm súc, bộc lộ sự trang trọng và nhân cách cao đẹp của Phạm Ngũ Lão.
Thuật lòng là một bài thơ xuất sắc trong sự nghiệp của Phạm Ngũ Lão, bài thơ cho ta hiểu thêm về hào khí Đông A của cả 1 thời đại thông qua hình ảnh người anh hùng về quốc, đồng thời kêu gọi ý thức trách nhiệm của mỗi người trong việc bảo vệ, xây dựng đất nước.
Xem thêm bài viết khác
- Quan niệm sống nhàn của Nguyễn Bỉnh Khiêm là gì?
- Phân tích các nhân tố giao tiếp thể hiện trong bức thư Bác Hồ gửi học sinh cả nước nhân ngày khai giảng năm học đầu tiên của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa tháng 9 năm 1945
- Quan sát một vật gần gũi quen thuộc, liên tưởng đến một vật khác có điểm giống với vật đó và viết câu văn có dùng phép ẩn dụ
- Các dạng bài văn viết về chủ đề: Truyện An Dương Vương và Mị Châu Trọng Thủy
- Phân tích nghệ thuật gây cười qua lời nói cuối truyện của thầy lí
- Qua chùm ca dao đã học, anh/chị thấy những biện pháp nghệ thuật nào thường được dùng trong ca dao? Những biện pháp đó co nét gì khác so với nghệ thuật thơ của văn học viết
- Phân tích nội dung yêu nước qua các tác phẩm viết về lịch sử (Những đoạn trích từ Đại Việt sử kí của Lê Văn Hưu, Đại Việt sử kí toàn thư của Ngô Sĩ Liên)
- Cảm nhận chung của anh( chị) về cuộc sống nhân cách Nguyễn Bỉnh Khiêm qua bài thơ" Nhàn"
- Viết một bài văn tự sự có sử dụng các yếu tố miêu tả và biểu cảm kể về một chuyến đi đã đem lại cho anh/chị
- Đoạn trích sử dụng rất nhiều câu thơ có dùng phép điệp (từ ngữ, hình ảnh, kiểu câu). Hãy tìm và nhận xét giá trị biểu cảm của những câu thơ đó
- Câu: “Nỗi hờn kim cổ trời khôn hỏi” có nghĩa gì? Nỗi hờn (hận) ở đây là gì? Tại sao tác giả cho là không thể hỏi trời được?
- Nội dung chính bài Tấm Cám