Tưởng tượng mình là nhân vật tôi trong bài thơ đồng chí của Chính Hữu Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí

Nội dung
  • 1 Đánh giá

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí được KhoaHoc tổng hợp với dàn ý chi tiết cùng những bài văn mẫu hay nhằm hỗ trợ học sinh hoàn thiện yêu cầu đề bài cũng như nâng cao kết quả học tập môn Văn lớp 9.

Đề bài: Tưởng tượng mình là nhân vật "tôi" trong bài thơ đồng chí của Chính Hữu để kể lại câu chuyện về quá trình hình thành “đồng chí” giữa tôi và anh trong đó có sử dụng yếu tố nghị luận

Bài làm:

Dàn ý Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng chí

1. Mở bài

  • Đóng vai người lính giới thiệu câu chuyện.

2. Thân bài

- Kể về sự gặp gỡ và quá trình trở thành đồng chí của những người lính.

  • Sự tương đồng về cảnh ngộ, xuất thân nghèo khó.
  • Cùng chung nhiệm vụ, sát cánh bên nhau trong chiến đấu.
  • Tình đồng chỉ nảy nở và bền chặt trong sự chan hòa, chia sẻ, giúp đỡ.

- Kể về kỉ niệm gian khó cùng tình đồng đội gắn bó keo sơn.

  • Những gian lao, thiếu thốn của cuộc đời người lính: sốt rét, áo rách, quần vá, chân không giày.
  • Sự gắn bó và đồng cảm với nhau trong mọi hoàn cảnh: nắm lấy tay nhau, nở nụ cười động viên nhau.

- Nhớ lại những đêm cùng nhau canh gác.

  • Không gian: rừng hoang, sương muối
  • Thời gian: đêm
  • Những người lính đứng cạnh bên nhau thực hiện nhiệm vụ.
  • Đêm khuya, ánh trăng như sà thấp xuống, treo trên đầu ngọn súng.

3. Kết bài

  • Nêu cảm nghĩ về quá khứ và tình đồng đội.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí - mẫu 1

Trải qua bao nhiêu năm tháng khổ đau, vất vả, cuối cùng chiến tranh đã đi qua. Hôm nay, ngồi trong căn nhà nhỏ, trong cái sự bình yên của đất nước, tôi đã có thể ngước nhìn lên ánh trăng sáng rực giữa bầu trời đêm. Ánh trăng gợi nhớ cho tôi về những kỉ niệm ngày còn cùng đồng đội tham gia chiến đấu trong chiến khu Việt Bắc. Đó là những đêm trăng dài cùng người đồng chí thân thương trải qua mà tôi vẫn nhớ mãi đến tận bây giờ.

Anh và tôi, gặp nhau trong chiến khu. Cả hai chúng tôi lúc ấy còn là những người trẻ, vô tư và tràn đầy nhiệt huyết. Quê hương anh “nước mặn đồng chua”, làng tôi nghèo “đất cày lên sỏi đá”. Chúng tôi đều có xuất thân từ những vùng đất khó khăn, cảnh ngộ nghèo khó như nhau cả. Mang theo vẻ hồn nhiên chân thật của người lao động, anh và tôi đã sớm thân quen với nhau.

Chúng tôi vốn dĩ là hai con người hoàn toàn xa lạ, bằng một cách nào đó đã gặp nhau và trở nên thân thiết. Có lẽ tình cảm giữa tôi với anh ngày một nảy nở qua những lần cùng làm chung nhiệm vụ, sát cánh bên nhau lúc chiến đấu. “Súng bên súng, đầu kề sát đầu” cùng ra vào nơi chiến trường đầy hiểm nguy. Lại nhớ những đêm cùng đắp chung chăn dưới nền trời lạnh cóng. Đó là mối tình tri kỉ giữa anh và tôi-tình đồng chí giản dị mà thanh cao.

Anh và tôi là hai người có cùng chung chí hướng, là hai con người rời khỏi quê hương để tham gia chiến đấu. Chúng tôi dù có xuất thân khác nhau nhưng có lẽ cùng một giấc mơ-giấc mơ về ngày đất nước độc lập. Những đêm cạnh nhau, anh kể tôi nghe chuyện về quê hương anh. Ruộng nương anh gửi cả cho bạn thân mình cày hộ, còn căn nhà đành phải bỏ mặc cho gió to tàn phá. Anh lại kể, kể những câu chuyện riêng tư, anh chia sẻ cho tôi mọi nỗi lòng của mình, những suy nghĩ thầm kín ấy được anh nói ra một cách chân thật và đầy đủ. Mỗi ngày trôi đi, tôi lại càng hiểu về anh nhiều hơn, mối quan hệ của chúng tôi vì thế ngày một thắm thiết.

Chúng tôi cùng nhau trải qua bao gian khó của chiến tranh.Lúc ấy ở rừng có đại dịch sốt rét. Anh em chiến hữu của tôi chết rất nhiều, bởi vì lúc ấy vẫn chưa có bất cứ loại thuốc hiệu quả nào để chữa trị cả. Anh với tôi biết từng cơn ớn lạnh, rét run cả người, toàn thân thể ướt ngập mồ hôi. Áo anh rách vai, quần tôi có vài mảnh vá. Trải qua đại dịch như vậy nhưng chúng tôi luôn bên nhau, tương trợ cho nhau vượt qua khó khăn. Mệt mỏi là vậy nhưng miệng vẫn cười?, lạnh cóng là thế nhưng vẫn luôn cười, phần vì không thể để anh lo lắng, mặt khác, nụ cười là động lực giúp tôi cố gắng từng ngày. Anh nắm tay tôi thật chặt, động viên tôi, tiếp thêm sức mạnh vượt qua bệnh tật.

Rồi khỏe bệnh, anh và tôi tiếp tục nhận nhiệm vụ. Những đêm rừng hoang sương muối, anh và tôi đứng canh gác cạnh bên nhau “chờ” giặc tới. Có lẽ tình đồng chí của chúng tôi đã sưởi ấm lòng giữa cảnh rừng hoang lạnh giá. Trong cảnh phục kích giặc giữa rừng, chúng tôi còn một người bạn nữa, đó là vầng trăng. Súng và trăng tuy gần mà xa, nhưng lại bổ sung và hài hòa vào nhau, giống như tình đồng chí của tôi và anh. Trong cái buốt giá luồn vào da thịt, đầu súng của người chiến sĩ và vầng trăng đứng cạnh bên nhau, đầu súng có trách nhiệm bảo vệ vầng trăng hòa bình.

Đất nước bây giờ đã độc lập, bình yên. Tôi bây giờ đã có thể sống một cách thoải mái không lo sợ chiến tranh. Tuy nhiên, đôi lúc tôi lại nhớ về khoảng thời gian còn chiến đấu, nhớ về anh-người bạn tri kỉ của mình. Tất cả những gian khổ của đời lính tôi đã có thể vượt qua được, nhờ vào sự gắn bó, tiếp sức của tình đồng đội. Đó là khoảng thời gian mà tôi sẽ luôn nhớ mãi.

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí - mẫu 2

Các bạn! Hòa bình đất nước được lặp lại, tôi là người may mắn trong số những người lính được trở về quê hương, sau những ngày kháng chiến gian lao, đứng giữa sự sống và cái chết. Đến bây giờ được sống trong hòa bình, độc lập, trong lòng tôi vẫn luôn khao khát được một lần về thăm quê của bạn, quê người đồng chí của tôi.

Tôi là anh cả trong một gia đình có sáu anh em, cha mẹ tôi là những người nông dân vất vả, bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, sống trên một vùng quê khó khăn ” đất cày lên sỏi đá”, tôi luôn mong muốn quê mình giàu có, đẹp hơn nữa. Cuộc kháng chiến vừa bắt đầu, tôi lại xin nhập ngũ. Rời quê hương lên đường, tôi nghĩ trong thời gian tới nhất định tôi sẽ lập được nhiều công lớn giúp ích cho nhân dân? tôi bây giờ đã trở thành một người lính ư? tôi có thể cầm súng chiến đấu ư? thật hạnh phúc biết bao.

Vào quân đội tôi được cử lên Việt Bắc – nơi chiến trường khốc liệt nhất của chiến tranh. Ngày ra quân, hành quân trên đường đi đến Việt Bắc tôi mới thấy sự cực nhọc, vất vả của những người lính cụ hồ, đến nơi, những người lính đi trước chúng tôi hai ngày đã nghĩ sẵn ở đó. Nổi bật trong số đó, người có thiện cảm với tôi từ lần đầu tiên là một anh lính trạc bằng tuổi tôi, dáng người cao cao, trông thật nhanh nhẹn, như một phản xạ, tôi nhanh chóng đến bắt chuyện với anh.

– Chào cậu!

– Ừ! chào bạn!

Anh ấy có vẻ hơn ngại ngùng, chỉ cười gượng. Như đã được định sẵn tôi với anh cùng chung một tiểu đội mang tên BK107. Đêm về tôi không sao ngủ được lại càng nôn nao muốn kết bạn với anh lính trẻ. Tôi sát lại gần anh, thở một hơi thật mạnh, nói thủ thỉ:

– Chiến tranh ác liệt nhỉ?

Người con trai ấy hơi sững sờ, chắc là tại vì tôi quá tự tin. Không sao, tôi là người như vậy mà, tôi cười một mình. Mở tròn mắt nhìn anh với vẻ mặt y như một đứa trẻ đòi quà, tôi mong nhận được câu trả lời. Có vẻ lần này anh ấy đỡ ngại hơn.

– Cậu ở đâu lên vậy? chắc ngoài Bắc hả?

– Vâng, tớ ở xuôi lên, tớ muốn nước mình độc lập lắm! còn cậu, cậu ở đâu?

Câu chuyện dần cởi mở và tự nhiên hơn.

Mình ở Nam Định, vùng ”nước năm đồng chua”, khổ lắm! Con người chân lấm tay bùn.

Vậy là từ hai người xa lại chúng tôi đã trò chuyện và quen nhau, ngày cùng nhau làm nhiệm vụ, tối đắp chung chăn. Đứng cạnh bên nhau, nhìn về phía xa xa, tôi và người lính ấy mong sao hòa bình được lặp lại, chiến tranh kết thúc. Nếu không có chiến tranh thì chắc chắn sẽ không có những giọt máu rơi xuống, sẽ không có những giọt nước mắt rơi xuống, tiếng khóc chờ chồng, chờ cha.

Cuộc gặp gỡ lần đầu của chúng tôi tuyệt biết bao! Ngày hôm nay gặp lại người anh em ấy, chúng tôi đã cùng nhau ôn lại những kỉ niệm xưa, ngồi bên nhau ôn lại kỉ niệm, sao ngày ấy dù sống trong hoàn cảnh khắc nghiệt của chiến tranh mà chúng tôi vẫn luôn nở nụ cười trên môi, kết thúc tuổi thanh xuân trong chiến tranh, chúng tôi ngày càng già đi, tóc bạc phơ mái đầu, nhưng sự hi sinh của chúng tôi thật là đáng. Tôi giở cuốn ảnh lưu giữ tình bạn ra xem, cùng hàn huyên đủ chuyện trên đời, tình đồng chí

Được gặp lại nhau trong hòa bình, tình bạn xưa dâng trào trong trái tim mỗi chúng tôi, chiến tranh đi qua nhưng mọi thứ ngày ấy vẫn còn diễn ra trước mắt chúng tôi. Làm sao chúng tôi quên được nhau, quên được tình bạn ấy, thật tuyệt vời!

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí - mẫu 3

Những năm đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp, tôi tham gia chiến đấu trong chiến dịch Việt Bắc năm 1947. Không thể nào kể hết những khó khăn, thiếu thốn và đủ mọi nguy nan trong cuộc kháng chiến ấy. Thế nhưng thật may mắn là nhờ có tinh thần yêu nước, tình đồng chí, đồng đội đã giúp tôi và những người lính vượt qua và làm nên chiến thắng.

Còn nhớ khi tôi vào trong quân ngũ, cứ ngỡ chỉ mình là xuất thân nghèo khó bần hàn, thế nhưng những người lính khác ai cũng từ người nông dân mà trở thành lính, quê hương họ cũng nghèo khó. Quê anh thì nước mặn đồng chua, quê tôi thì đất cày lên sỏi đá. Tình đồng chí giữa chúng tôi bắt đầu từ điểm tương đồng xuất thân và hoàn cảnh nghèo khó ấy. Để rồi từ những người xa lạ khắp mọi miền đất nước, khác xa phương trời chẳng hẹn gặp gỡ mà lại thành người bạn, người đồng chí. Đối với những hoàn cảnh khắc nghiệt nơi chiến trường, cùng nhau chiến đấu, cùng chung lí tưởng cách mạng là đã trở thành đồng đội. Chúng tôi chiến đấu vì quê hương, đất nước, vì sự hòa bình và độc lập của dân tộc, ấy là điểm chung gắn kết. Mùa đông vùng Việt Bắc gió rét tràn về, tôi cùng anh bạn đắp chung một cái chăn. Chiến trường thì lấy đâu ra chăn ấm, chiếu êm. Ai nấy đều bị cái lạnh hành hạ, đắp cùng nhau tấm chăn, chia sẻ cho nhau hơi ấm, thế là hóa tri kỉ.

Chúng tôi xa nhà thì nhớ lắm. Chúng tôi bỏ lại ruộng vườn, gian nhà, quê hương để đến đây chiến đấu, bảo vệ sự bình yên nơi xóm làng. Lắm lúc đồng đội buồn: "Không biết ở nhà dạo này thế nào rồi. Ai cấy cày cho mẹ già, ai chăm chút cho căn nhà mỗi khi gió mùa về? Anh nhớ thương lắm chú à!", những lúc ấy, tôi chỉ biết vỗ vai anh an ủi. Chúng tôi cùng nhau chia sẻ mọi gian lao, từng cơn ớn lạnh, từng trận sốt rét, quần áo cũng chẳng ai còn lành lặn hơn ai. Chiến đấu vất vả và gian nan lắm, chân không giày, áo rách, quần vá rồi lại ốm đói nhưng chỉ cần tình đồng chí của người lính, chúng tôi cầm tay nhau là có thể vượt qua mọi khó khăn, thử thách.

Nhớ nhất là những đêm giữa núi rừng hoang vu lạnh lẽo, sương muối ướt đẫm đôi vai áo, chúng tôi vẫn đứng cạnh bên nhau, sát cánh để chờ giặc tới. Đối với tôi khi ấy, sức mạnh của tình đồng chí mạnh mẽ hơn cả, giúp tôi vượt lên sự khắc nghiệt của thời tiết, hiểm nguy khi chờ giặc. Đồng hành cùng chúng tôi trong những đêm ấy chính là vầng trăng sáng. Đêm về khuya, ánh trăng sà thấp xuống như treo đầu ngọn súng. Vầng trăng sáng tỏ khiến tôi vững tin vào thắng lợi của kháng chiến và hòa bình trên quê hương một ngày không xa.

Giờ đây, suy nghĩ đó của tôi đã thành hiện thực, chưa khi nào tôi quên đi những năm tháng hào hùng ấy. Thi thoảng, tôi vẫn cùng những người lính chiến đấu năm xưa ôn lại chuyện cũ. Nhớ thương biết bao những năm tháng đã qua...

Đóng vai người lính kể lại bài thơ Đồng Chí - mẫu 4

Ngày ấy trước sự áp bức của bọn thực dân cướp nước, nghe theo Lời kêu gọi toàn quốc kháng chiến của Bác, tôi cùng nhiều người khác hăm hở lên đường đi đánh giặc.

Vốn xuất thân là nông dân, hành trang của tôi chẳng có gì ngoài lòng nồng nàn yêu nước và căm thù giặc sâu sắc. Tôi được phân vào một đơn vị tham gia chiến dịch Điện Biên Phủ 1954, trong đơn vị cũng có khá nhiều người có xuất thân và hoàn cảnh giống tôi, chúng tôi nhanh chóng làm quen và trở thành thân thiết. Điều đầu tiên chúng tôi trao đổi là về miền quê của mỗi người. Quê hương anh là một vùng chiêm trũng ven biển khó cấy cày làm ăn, còn quê tôi cũng chẳng khá hơn gì, là vùng trung du miền núi “chó ăn đá gà ăn sỏi”. Phải chăng cùng xuất thân từ những miền quê nghèo khó đã giúp chúng tôi xích lại gần nhau hơn? Giữa bọn tôi tồn tại một sợi dây cảm thông kì lạ mặc dù chỉ vừa mới quen biết. Hơn nữa, ngoài có chung hoàn cảnh xuất thân, chúng tôi còn chung cả lí tưởng và mục đích chiến đấu. Những người nông dân vốn xưa nay chỉ quen tay cấy tay cày bỗng giờ phải cầm súng chiến đấu để bảo vệ ruộng nương nhà cửa, những người thân yêu và miền quê yêu dấu. Nói chúng tôi ra đi mà không lưu luyến là nói dối, nhưng vận nước đang lâm nguy, chẳng một ai có thể ngồi yên chờ đợi. Tôi cùng đồng đội đành phải gác lại tất cả, quyết chí hy sinh vì Tổ quốc. Vốn quen với tay cầm cuốc, quen với công việc đồng áng vườn tược, nay lại cầm trên tay khẩu súng, thật tình tôi chưa quen. Nhưng với tinh thần yêu nước nồng nàn và ý chí quyết tâm, tôi không quản ngại khó khăn, cùng nhau học tập, cố gắng nghe theo lời chỉ bảo của anh em để có thể hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ.

Tây Bắc vốn nổi tiếng là nơi rừng thiêng nước độc. Những cơn sốt rét rừng vẫn còn ám ảnh tôi tới tận bây giờ, khi nghĩ lại vẫn thấy rùng mình ớn lạnh. Ai trải qua rồi mới biết cái cảm giác bên trong thì lạnh buốt, bên ngoài thì nóng toát mồ hôi nó như thế nào. Thực tế, số đồng đội tôi chết vì sốt rét còn nhiều hơn cả hy sinh ngoài trận mạc. Khi ấy, có một chiếc chăn đơn mà tận hai người đắp chung. Thế nhưng, chính cái thiếu thốn, gian khổ: “bát cơm sẻ nửa chăn sui đắp cùng” ấy đã khiến chúng tôi dễ dàng cảm thông và thấu hiểu nhau nhiều hơn. Cuộc kháng chiến những ngày đầu vô cùng khó khăn vì phải chờ sự viện trợ từ quốc tế. Những ngày thiếu thốn quân trang quân bị, nhìn cái áo rách vai, cái quần có vài mảnh vá, chúng tôi chỉ biết cười, nắm tay nhau để cùng vượt qua khó khăn. Có cả những hôm hành quân trong rừng mà chân không giày, cộng với cái rét cắt da cắt thịt làm cho cuộc hành quân trở nên gian nan gấp bội phần. Giữa không gian rừng núi của Trường Sơn đại ngàn, dưới cái lạnh căm căm của mùa đông với sương muối giăng mắc khắp nơi khắp chốn, bóng anh và bóng tôi ẩn hiện dưới ánh trăng. Không ai nói với nhau một câu, xung quanh chỉ còn nghe thấy tiếng gió heo hút thổi trên ngọn cây nhưng lòng tôi vẫn thấy vô cùng ấm áp. Cuộc chiến hãy còn dài lắm và những người lính áo vải chúng tôi có lẽ phải rời xa quê hương thêm một khoảng thời gian dài nữa. Thế nhưng cứ nghĩ đến hình ảnh lá cờ đỏ thiêng liêng của Tổ quốc bay phấp phới dưới bầu trời hòa bình, nhớ đến niềm vui giải phóng của đồng bào nơi chúng tôi đi qua và đặc biệt là những người anh em đã sát cánh bên tôi, mọi gian khổ khó khan đều tan biến hết thảy.

Bên cạnh những khó khăn, gian khổ thường thấy, đời lính cũng không hiếm những phút giây lãng mạn. Những hôm phục kích chờ giặc, bên cạnh đồng đội, tôi còn có vầng trăng trên cao làm bạn. Ngắm nhìn ánh trăng chiếu rọi khắp nhân gian, khu rừng không còn âm u, vắng lặng mà mang nét thơ mộng, trữ tình hiếm có. Đêm càng khuya, vầng trăng càng chếch bóng xuống dần. Có lúc trăng như đang treo lơ lửng trên đầu ngọn súng, tâm hồn người chiến sĩ bỗng chốc biến thành thi sĩ.

Cuộc chiến đã đi qua hơn nửa đời người nhưng mỗi lần nhớ lại những năm tháng ấy, trong tôi dâng lên một niềm xúc động khó tả. Tình đồng chí, đồng đội gắn bó keo sơn chính là sức mạnh giúp chúng tôi vượt qua mọi khó khăn, gian khổ và đi đến thắng lợi trong cuộc kháng chiến. Qủa thật tình đồng chí đồng đội những tháng năm ấy thiêng liêng hơn bao giờ hết. Tôi luôn cảm thấy tự hào vì bản thân được cống hiến cho tổ quốc. Những người chiến sĩ đồng đội đã hi sinh nơi bom đạn chiến trường, cùng nhau sát cánh bên tôi vượt qua tất cả ấy chính là những người không chỉ khiến tôi mang ơn mà còn vô cùng thương xót. Các bạn, những người trẻ tuổi nghe xong câu chuyện tôi kể hãy cố gắng học tập thật tốt để đưa đất nước ta ngày càng phồn vinh phát triển.

Chuyên mục Văn mẫu lớp 9 bao gồm các bài văn mẫu hay kèm theo dàn ý chi tiết cho tất cả các đề bài có trong môn Ngữ văn 9 được KhoaHoc tổng hợp và sắp xếp theo từng bài học bám sát nội dung học SGK. Học sinh có thể tham khảo các bài văn mẫu 9 hay chọn lọc để hoàn thành yêu cầu đề bài cũng như luyện viết văn. Chúc các em học tập tốt môn Văn lớp 9 với những bài văn mẫu, lập dàn ý của chúng tôi giới thiệu. 

Chủ đề liên quan