Cảm nhận của em về 2 khổ thơ đầu Viếng lăng Bác Cảm nhận của em về đoạn thơ sau: "Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác...Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân".

Nội dung
  • 21 Đánh giá

KhoaHoc mời các bạn cùng tham khảo dàn ý chung cũng như những bài mẫu hay, chọn lọc để hoàn thiện đề bài Phân tích 2 khổ đầu Viếng lăng Bác của Viễn Phương để thấy rõ những cảm xúc chân thành, thiêng liêng, sâu sắc của nhà thơ khi lần đầu tới thăm lăng Bác.

Câu 3: (4,0 điểm)

Cảm nhận của em về đoạn thơ sau:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát

Ôi! Hàng tre xanh xanh Việt Nam

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng.

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”

(Trích Viếng lăng Bác – Viễn Phương, Ngữ văn 9, Tập 2)

Dàn ý phân tích 2 khổ đầu bài thơ Viếng lăng Bác

1. Mở bài: Giới thiệu vị trí đoạn thơ trong tác phẩm và khái quát nội dung cảm xúc của đoạn

  • “Viếng lăng Bác” của Viễn Phương là bài thơ nói lên một cách thiết tha, cảm động những tình cảm thiêng liêng, thành kính của đồng bào miền Nam với Bác. Đây là khổ thơ thứ 1 và thứ 2 của bài thơ.
  • Đoạn thơ giới thiệu hoàn cảnh ra thăm lăng Bác, khẳng định Bác bất tử, trường tồn cùng núi sông, dân tộc và tình cảm thành kính, thiêng liêng, sâu sắc mà nhân dân dành cho Người là vĩnh viễn.

2. Thân bài: Lần lượt trình bày cảm nhận của em về đoạn thơ

a. Khổ 1: Cảm xúc của nhà thơ khi đến thăm lăng Bác:

  • Bồi hồi, xúc động “Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”
    • Cặp đại từ xưng hô “con – Bác” là cách xưng hô gần gũi, thân thiết của người miền Nam, vừa thể hiện sự tôn kính với Bác vừa bộc lộ tình cảm yêu thương dành cho một người ruột thịt, một người bề trên trong gia đình. Đọc câu thơ tưởng như Viễn Phương là một người con xa xứ nay mới được trở về bên người cha của mình.
    • Cách nói giảm nói tránh “thăm” làm giảm bớt nỗi đau thương, mất mát, đồng thời khẳng định sự bất tử của Người trong lòng những người con nước Việt.

=> Câu thơ giản dị như một lời kể nhưng lại thấm đượm bao nỗi bồi hồi, xúc động của nhà thơ, sau bao mong nhớ, đợi chờ, nay mới được đến viếng lăng Bác.

  • Ấn tượng đậm nét hiện lên trước mắt nhà thơ: “hàng tre bát ngát”:
  • Đây là hình ảnh thực làm nên quang cảnh đẹp cho lăng Bác, mang lại cảm giác thân thuộc, gần gũi của làng quê, đất nước Việt.
  • Đấy cũng là hình ảnh chưa nhiều sức gợi: “hàng tre xanh xanh” gợi vẻ đẹp của con người, đất nước Việt Nam với sức sống tràn trề; “bão táp…thẳng hàng” là vẻ đẹp cứng cỏi, kiên cường, bền bỉ, hiên ngang, bất khuất của con người Việt Nam. Hình ảnh hàng tre bao quanh lăng là biểu tượng của cả dân tộc đang quây quần bên Người, thể hiện tình cảm của người dân miền Nam nói riêng, con người Việt Nam nói chung dành cho Bác.

=> Khổ 1 là niềm xúc động sâu sắc của nhà thơ khi đứng trước lăng Người.

b. Khổ 2: Tác giả như muốn khẳng định: Bác còn đó và còn mãi giữa non sông đất nước, giữa lòng dân tộc và nhân loại:

“Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng

Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ

Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân…”

  • Sáng tạo hình ảnh thực và hình ảnh ẩn dụ sóng đôi: mặt trời trên lăng – mặt trời tự nhiên, mặt trời trong lăng - ẩn dụ cho Bác. Bác đã mang lại ánh sáng chân lí, giúp dân tộc thoát khỏi kiếp sống nô lệ, khổ đau. Hình ảnh ẩn dụ đã vừa khẳng định, ngợi ca sự vĩ đại của Người vừa thể hiện tình cảm tôn kính, biết ơn của cả dân tộc đối với Người.
  • Hình ảnh “dòng người” đi liền với điệp từ “ngày ngày” gợi dòng thời gian vô tận và sự sống vĩnh cửu; mang giá trị tạo hình, vẽ lên quang cảnh những đoàn người nối tiếp nhau không dứt, lặng lẽ và thành kính vào viếng Bác. Lối nói “đi trong thương nhớ” thể hiện nỗi tiếc thương, nhớ nhung lớn lao của bao thế hệ người dân VN trong giây phút vào lăng viếng Bác.
  • “Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”: 79 năm cuộc đời Người đã hiến dâng trọn vẹn cho quê hương, đất nước. Nó được kết từ hàng ngàn, hàng vạn trái tim để bày tỏ niềm tiếc thương, kính yêu vị cha già dân tộc. Đó cũng là cách để nhà thơ khẳng định Bác sống mãi trong lòng dân tộc.

=> Một liên tưởng độc đáo, phù hợp với khung cảnh viếng lăng, làm cho hình tượng thơ thêm cao quý, lộng lẫy.

3. Kết bài: Khái quát giá trị, ý nghĩa của đoạn thơ

  • Đoạn thơ mang trọn âm hưởng chủ đạo của bài thơ: Đó là tấm lòng thành kính, thiêng liêng không chỉ của riêng nhà thơ mà còn của cả miền Nam với Bác Hồ.
  • Đoạn thơ còn cho ta thấy tài năng của tác giả: Giàu chiêm nghiệm và suy tư, với nghệ thuật dùng từ độc đáo vừa giản dị tự nhiên vừa hàm súc, trang trọng.

Phân tích 2 khổ đầu Viếng lăng Bác - Mẫu 1

Viễn Phương là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng miền Nam thời chống Mỹ. Viễn Phương cũng là người có may mắn khi có nhiều năm sống và làm việc gần gũi với Bác Hồ - vị lãnh tụ vĩ đại, vị cha già đáng kính của cả dân tộc Việt Nam. Sự ra đi của Bác không chỉ là nỗi đau, sự mất mát của toàn thể dân tộc mà còn là sự tiếc thương của chính Viễn Phương. Đã có rất nhiều vần thơ thể hiện lòng nhớ thương của những người con Việt Nam đối với Bác. Tuy là một bài thơ ra đời khá muộn, nhưng "Viếng lăng Bác" của Viễn Phương vẫn để lại trong lòng người đọc những cảm xúc sâu lắng, bởi đó là tình cảm của một người con miền Nam lần đầu được gặp Bác. Toàn bài thơ là một lời tâm sự thiết tha, là nỗi lòng thành kính và tha thiết của một người con miền Nam đối với Bác Hồ.

Bài thơ được mở đầu như một lời thông báo nhưng dạt dào tình cảm:

"Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác"

Từ miền Nam xa xôi, Viễn Phương cùng các chiến sĩ ra thủ đô Hà Nội để thăm lăng Bác. Đây là một cuộc hành hương xa xôi cách trở. Khi đến lăng Bác, nhà thơ bồi hồi xúc động. Câu thơ thể hiện tình cảm thiết tha của một người con miền Nam qua cách xưng hô gần gũi, mang đậm chất Nam Bộ: "Con - Bác".

Đứng từ xa ngắm nhìn lăng Bác, hình ảnh hàng tre bát ngát hiện lên trong màn sương huyền ảo của bầu trời Hà Nội. Từ lâu, lũy tre xanh đã trở thành một nét đẹp của làng quê Việt Nam. Tre là người bạn thân thiết, luôn giúp đỡ con người trong mọi công việc: "Tre giữ làng, giữ nước, giữ mái nhà tranh, giữ đồng lúa chín". Nhưng ở đây, hình ảnh hàng tre không chỉ dừng lại ở tầng nghĩa đó, hàng tre ở đây được so sánh ngầm với con người và đất nước Việt Nam. Tre luôn đoàn kết, gắn bó tạo nên một lũy thành kiên cường thách thức gió mưa, giông bão.

Tre là hình ảnh tượng trưng cho tình đoàn kết, cho khí thái hiên ngang, bất khuất và dũng cảm chiến đấu với kẻ thù của người Việt Nam. Tre luôn đứng thẳng như con người Việt Nam thà chết đứng chứ không chịu sống quỳ. Biểu tượng đẹp đẽ ấy được nhà thơ chọn lọc miêu tả quanh lăng Bác, như cả dân tộc Việt Nam vẫn đang sát cánh bên Bác. Hàng tre Việt Nam ấy, phải chăng là hình ảnh của những người con Việt Nam đang quây quần bên vị cha già đáng kính đang đi vào giấc ngủ an lành? Hình ảnh tượng trưng có ý nghĩa biết bao!

Tiến gần hơn đến lăng Bác, nhà thơ bắt gặp hình ảnh mặt trời đỏ rực trên lăng:

"Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ"

Mặt trời rực sáng đem đến sự sống, đem đến ánh sáng tươi đẹp cho trái đất. Nếu mặt trời trong câu thơ thứ nhất là một hình ảnh thực, là một vật thể không thể thiếu của vũ trụ, thì mặt trời trong câu thơ thứ hai lại là một hình ảnh ẩn dụ được nhà thơ sử dụng một cách sáng tạo. Bác như một vầng thái dương sáng ngời, chiếu rọi ánh sáng cách mạng vào tâm hồn để vực dậy sự sống tươi đẹp cho những con người đắm chìm trong bóng đêm nô lệ. Bác là người đã dẫn dắt con đường cách mạng cho toàn thể dân tộc, đã cống hiến cả cuộc đời mình cho sự nghiệp giải phóng đất nước. Vì thế, Bác là một mặt trời vẫn luôn ngời sáng, sưởi ấm cho linh hồn của những người con Việt Nam:

"Bác sống như trời đất của ta
Yêu từng ngọn lúa, mỗi nhành hoa
Tự do cho mỗi đời nô lệ
Sữa để em thơ, lụa tặng già"

(Tố Hữu)

Hình ảnh dòng người vào thăm lăng Bác đã được nhà thơ miêu tả một cách độc đáo và để lại nhiều ấn tượng:

"Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân"

Ta nhận thấy cụm từ "ngày ngày" được điệp lại một lần nữa. "Ngày ngày" là sự lặp đi lặp lại, không thay đổi. Điệp lại cụm từ này, có lẽ nhà thơ muốn nhấn mạnh một chân lý. Nếu mỗi ngày mặt trời đi qua trên lăng, tỏa ánh sáng sưởi ấm vạn vật là một điệp khúc không thay đổi của thời gian, thì công ơn của Bác ngự trị trong lòng người dân Việt Nam cũng không phai nhòa theo năm tháng, và hình ảnh dòng người ngày ngày vào viếng lăng Bác cũng đã trở thành một điệp khúc của lòng kính yêu Bác. "Tràng hoa" cũng là một hình ảnh ẩn dụ sáng tạo của nhà thơ. Mỗi người con Việt Nam là một đóa hoa tươi thắm, hàng triệu con người Việt Nam sẽ trở thành một tràng hoa rực rỡ sắc màu dâng lên Bác. Hình ảnh hoán dụ "bảy mươi chín mùa xuân" tượng trưng cho bảy mươi chín năm Bác đã cống hiến cuộc đời cho đất nước, cho cách mạng.

Mỗi tuổi đời của Bác là một mùa xuân tươi đẹp dâng hiến cho Tổ quốc. Và giờ đây, Bác chính là mùa xuân còn dòng người là những đóa hoa tươi thắm. Hoa nở giữa mùa xuân, một hình ảnh đẹp đẽ, ý nghĩa biết bao!

Phân tích 2 khổ đầu Viếng lăng Bác - Mẫu 2

Sinh thời Hồ Chí Minh vừa là một nhà văn, một nhà thơ vừa là một nhà hoạt động Cách mạng. Sự cống hiến của Người dành cho dân tộc Việt Nam là khôn kể. Chính sự hi sinh độ lượng ấy đã làm nên một Hồ Chí Minh sống mãi trong tâm trí hàng triệu người dân Việt Nam cũng như bạn bè quốc tế để rồi bức tượng đài hùng vĩ về Người đã dần đi vào thơ ca một cách rất đỗi tự nhiên. Có thi nhân viết về Bác với những công lao vĩ đại, cũng có những thi nhân đi sâu vào ca ngợi tài năng thơ ca, con người Bác còn Viễn Phương lại khác. Ông đã chọn cho mình một cách viết rất riêng. Đó là dòng cảm xúc của một lần tới lăng viếng Bác qua bài thơ “Viếng lăng Bác” mà trong đó hai khổ thơ đầu đã bộc lộ cảm xúc của tác giả lần đầu vào lăng viếng Bác.

Mở đầu bài thơ như một lời kể rất đỗi tự nhiên:

“Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác”

“Con” – “Bác” cách xưng hô sao mà gần gũi, thân thiết đến thế? Không phải đến đây để viếng mà là để “thăm”. Chữ “thăm” là cách nói giảm, nói tránh vô cùng tinh tế, nó giúp giảm bớt đi sự mất mát, đau thương. Câu thơ mở đầu hướng ta đến với hình ảnh một người con lâu ngày mới có dịp về thăm người cha già kính yêu của mình. Về nơi đây, người con ấy còn thấy:

“Đã thấy trong sương hàng tre xanh bát ngát
Ôi hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa vẫn đứng thẳng hàng"

Ba câu thơ là ba biện pháp nghệ thuật hoàn toàn khác nhau. Từ láy “xanh xanh, bát ngát”, thành ngữ “bão táp mưa sa”, biện pháp nhân hóa “đứng thẳng hàng” đã cùng nhau làm nên cái hồn cho một hàng tre vốn vô hồn. Mỗi câu thơ hiện ra dần hay hơn, có hồn hơn khi đặc tả sức sống gan góc, kiên cường của hàng tre xanh bát ngát một màu. Và ở đây, tre xanh không chỉ còn là loài cây thân thẳng nữa mà nó đã được biến thành biểu tượng tượng trưng cho con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam bất khuất, kiên cường. Ẩn sâu trong ý thơ là niềm tự hào còn xen lẫn cả sự bồi hồi, xúc động.

Bước sang khổ thơ thứ hai là những hình ảnh hoàn toàn quen thuộc nhưng được diễn tả với một giọng thơ đầy mới lạ:

“Ngày ngày mặt trời đi qua lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ”

Nếu mặt trời trong câu thơ thứ nhất là mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ tỏa ánh nắng rực rỡ, chói chang xuống nơi trần gian, ban tặng sự sống đến muôn loài, vạn vật thì mặt trời trong câu thơ tiếp theo lại là hình ảnh ẩn dụ cho Bác. Người là vị cha già vĩ đại của dân tộc, là người dẫn dắt cách mạng Việt Nam cập bến vinh quang. Bác là mặt trời đang ngự trị trong lăng để hàng ngày mặt trời của thiên nhiên, vũ trụ đi qua phải ngắm nhìn mặt trời của dân tộc Việt Nam. Ví Bác như mặt trời nhằm ca ngợi công lao của Bác với dân tộc Việt Nam và Bác vĩnh viễn hóa, bất tử hóa trong lòng người Việt Nam. Bên cạnh hình ảnh mặt trời tráng lệ còn là dòng người nối tiếp:

“Ngày ngày mặt trời đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân”

Với điệp từ “Ngày ngày” kết hợp cùng hai từ “dòng người” đã diễn tả hình ảnh lặp đi lặp lại thường xuyên, liên tục, là sự nối tiếp không dừng lại của đoàn người vào lăng. Và cũng thông qua hai nghệ thuật ẩn dụ và hoán dụ tác giả đã vẽ nên bức tranh dòng người đang lần lượt xếp hàng thành vòng tròn để dâng lên cuộc đời bảy mươi chín mùa xuân là dâng lên Người những thành quả đã gặt hái được.

Như vậy xuyên suốt hai khổ thơ là những cảm nhận rất thực và vô cùng tinh tế của Viễn Phương trong một lần vào lăng. Cảm xúc ấy khi thì bồi hồi, xúc động, tự hào, khi lại vô cùng biết ơn, thành kính. Hai khổ thơ cũng đã đưa ta về với hình ảnh rực rỡ của vị cha già vĩ đại, kính yêu ngàn đời còn sống mãi theo năm tháng, theo thời gian.

Phân tích 2 khổ đầu Viếng lăng Bác - Mẫu 3

Viễn Phương là nhà thơ miền Nam trưởng thành trong hai cuộc kháng chiến chống Pháp và chống Mỹ. Ông là một trong những cây bút có mặt sớm nhất của lực lượng văn nghệ giải phóng ở miền Nam. Thơ của ông bình dị mà trữ tình, mộc mạc chân chất nhưng nhẹ nhàng sâu lắng.

Tháng 4 năm 1976, lăng Bác được khánh thành, Viễn Phương được ra miền Bắc viếng thăm lăng Bác. Bao cảm xúc yêu thương dồn nén trào dâng thành những vần thơ thành kính trang nghiêm. Bài thơ “Viếng lăng Bác” ra đời ngay sau đó và nhanh chóng đi vào lòng người đọc bởi cảm xúc chân thành, tha thiết của nhà thơ. Trong đó, hai khổ thơ đầu đã bộc lộ tâm trạng nhà thơ khi nhìn thấy hàng tre bên lăng Bác và cảnh vật quanh lăng.

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác
Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.
Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Cảm hứng bao trùm trong thơ chính là niềm xúc động thiêng liêng, thành kính, lòng biết ơn và tự hào pha lẫn nỗi xót đau khi tác giả từ miền Nam ra viếng thăm lăng Bác. Nguồn cảm hứng ấy chi phối cả giọng điệu của bài thơ: thành kính, suy tư, trầm lắng xen lẫn niềm đau xót, tự hào. Mạch vận động của cảm xúc đi theo trình tự không gian từ xa tới gần. Bài thơ được mở đầu bằng lời tâm sự:

Con ở miền Nam ra thăm lăng Bác

Từ xưng hô “con” trong câu thơ mang đậm chất Nam Bộ, thể hiện tình cảm yêu thương kính trọng của của nhà thơ đối với Bác. Cách xưng hô nghe vừa chân chất mộc mạc lại vừa gần gũi thân tình. Đó là tiếng xưng hô yêu thương không chỉ của nhà thơ mà còn là của nhân dân miền Nam đối với Bác. Trong tâm khảm của mọi người, Bác là một người cha vĩ đại:

Người là Cha, là Bác, là Anh
Quả tim lớn lọc trăm dòng máu nhỏ

(Tố Hữu)

Cụm từ “ở miền Nam” gợi lên tình cảm thân thương ruột thịt giữa Bác với đồng bào miền Nam, mảnh đất thành đồng chống Mĩ, nơi Bác bắt đầu bước hành trình đi tìm đường cứu nước:

Bác nhớ miền Nam nỗi nhớ nhà
Miền Nam mong Bác nỗi mong cha

(Tố Hữu)

Tự đáy lòng của người con đến thăm cha, Viễn Phương như muốn nói với Bác: Con ở miền Nam… Câu thơ giản dị nhưng bao hàm một ý nghĩa lớn. Trong tim Bác và trong tim miền Bắc, miền Nam luôn luôn là nỗi đau chia cắt, nỗi nhớ thương, là niềm tự hào, là biểu tượng anh hùng, bất khuất, dũng cảm, kiên cường, là thành đồng Tổ Quốc… Giờ đây, nhà thơ mang theo cả niềm tự hào đó của đồng bào miền Nam để đến với Bác. Và hình ảnh đầu tiên tác giả bắt gặp qua màn sương mờ buổi sớm chính là bóng dáng quen thuộc của làng quê:

“Đã thấy trong sương hàng tre bát ngát
Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam
Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng”

Hàng tre bát ngát xanh tươi trải rộng bên lăng như những hàng quân canh giữ cho giấc ngủ yên bình của Bác. Hàng tre xanh mộc mạc và bình dị của quê hương được nhà thơ nhấn mạnh:

Ôi, hàng tre xanh xanh Việt Nam

Từ cảm thán “Ôi” bộc lộ cảm xúc trào dâng khi bắt gặp hình ảnh thân thiết của quê nhà. Từ gợi tả “xanh xanh” đảo ra phía trước như muốn nhấn mạnh sức sống bền bỉ của quê hương, dân tộc. Màu xanh ấy đã được nhà thơ Nguyễn Duy ca ngợi:

Tre xanh, xanh tự bao giờ
Chuyện ngày xưa… đã có bờ tre xanh

(Tre Việt Nam)

Quả thật, đi suốt chiều dài của đất nước Việt Nam, từ miền ngược đến miền xuôi, nơi nào ta cũng thấy bóng dáng của làng quê qua hình ảnh hàng tre quen thuộc: “Tre Đồng Nai, nứa Việt Bắc, tre ngút ngàn Điện Biên Phủ, lũy tre thân mật làng tôi… Đâu đâu ta cũng có nứa tre làm bạn” – (Cây tre, Thép Mới). Cho nên, giữa muôn ngàn cây và hoa bên lăng Bác, Viễn Phương chọn hình ảnh hàng tre để miêu tả không phải ngẫu nhiên mà là một dụng ý nghệ thuật của nhà thơ.

Từ màu xanh đầy sức sống của hàng tre, nhà thơ liên hệ đến phẩm chất cao đẹp của con người:

Bão táp mưa sa đứng thẳng hàng

Cây tre mộc mạc giản dị là thế, nhưng lại kiên cường bất khuất không hề khuất phục trước bão giông:

Bão bùng thân bọc lấy thân
Tay vươn, tay níu tre gần nhau hơn

(Tre Việt Nam)

Phẩm chất của tre gần gũi với phẩm chất của người dân Việt, chân chất bình dị trong cuộc sống lao động, nhưng lại anh hùng bất khuất trong cuộc đấu tranh giải phóng nước nhà. Hòa vào dòng người đang tiến dần đến trước lăng, mạch suy tưởng của nhà thơ tiếp tục dâng trào khi đứng giữa quảng trường Ba Đình rộng lớn:

Ngày ngày mặt trời đi qua trên lăng
Thấy một mặt trời trong lăng rất đỏ.

Ai đã từng viếng lăng Bác mới cảm nhận hết hàm ý ẩn chứa trong hai câu thơ trên của Viễn Phương. Nếu hình ảnh “mặt trời trên lăng” là bút pháp tả thực để chỉ một thực thể trong vũ trụ thì “mặt trời trong lăng” là hình ảnh ẩn dụ để chỉ Bác. Một hình ảnh đối chiếu đầy sáng tạo để ca ngợi sự vĩ đại của Bác Hồ. Mặt trời là nguồn sống của muôn loài vạn vật khi nó mang lại ánh sáng và hơi ấm khắp hành tinh. Bác Hồ kính yêu cũng là người mang lại ánh sáng Cách mạng từ Luận cương của Lênin soi sáng trên bầu trời đêm của những cuộc đời tối tăm, nô lệ.

Thật ra, việc so sánh Bác với hình ảnh mặt trời không phải là phát hiện mới của Viễn Phương. Trước đây, trong ca dao kháng chiến chúng ta cũng từng bắt gặp cách so sánh tương tự:

Bác Hồ là vị cha chung
Là sao Bắc Đẩu, là vầng Thái Dương

Nhưng sáng tạo của Viễn Phương chính là hình ảnh “mặt trời trong lăng rất đỏ”, để từ đó khái quát được hình ảnh Bác Hồ vĩ đại biết chừng nào! Cùng với mặt trời ngày ngày đi qua trên lăng là dòng người đi trong thương nhớ.

Ngày ngày dòng người đi trong thương nhớ
Kết tràng hoa dâng bảy mươi chín mùa xuân

Nhịp thơ chầm chậm như bước chân của dòng người lặng lẽ đi trong suy tưởng, bao trùm một không khí thương nhớ Bác khôn nguôi, thành kính kết tràng hoa tình yêu dâng bảy mươi chín mùa xuân của Người. “Người ta là hoa của đất”, nhà thơ thật sâu sắc và tinh tế khi tôn quí nhân dân. Mỗi người dân là một bông hoa và dòng người đi trong thương nhớ chính là tràng hoa dâng lên Bác.

Ngày ngày… ngày ngày…, sự lặp lại của thời gian, cũng là sự lặp lại của lòng thương nhớ. Cứ mỗi ngày mặt trời đi qua trên lăng Bác, thì mỗi ngày dòng người như bất tận lại nối tiếp nhau vào lăng dâng lên Người những đóa hoa đời tươi thắm nhất. Tình cảm của người dân Việt Nam đối với Bác đã trở thành chân lí như vòng tuần hoàn của thời gian.​

Tóm lại, chỉ qua hai khổ thơ, Viễn Phương đã bộc lộ được cảm xúc trào dâng của mình khi lần đầu tiên được viếng thăm lăng Bác. Những hình ảnh trong thơ được xây dựng bằng rung cảm thiết tha của nhà thơ. Từ đó, tác giả bộc lộ tình cảm chân thành, bình dị mà tha thiết của mình đối với Bác. Đó cũng là tình cảm chung của nhân dân miền Nam dành cho vị lãnh tụ kính yêu của dân tộc.