Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: ''Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta'' trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm Phân tích tư tưởng của nhân dân qua tác phẩm Đất nước
KhoaHoc mời các bạn cùng theo dõi dàn ý chi tiết cùng những bài văn mẫu 12 hay chọn lọc được tổng hợp đăng tải dưới đây để hoàn thiện yêu cầu Phân tích tư tưởng của nhân dân qua tác phẩm Đất nước.
Đề bài: Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: ''Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta'' trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Tư tưởng Đất nước của nhân dân trong bài Đất Nước
- Dàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước
- Văn mẫu Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước
- Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 1
- Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 2
- Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 3
- Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 4
- Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 5
- Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 6
- Tham khảo thêm: Mở bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Dàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước
Dàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - mẫu 1
I. Mở bài
Nguyễn Khoa Điềm thuộc thế hệ các nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Mĩ cứu nước. Thơ ông hấp dẫn người đọc bởi sự kết hợp giữa xúc cảm nồng nàn và suy tư sây lắng của người trí thức vì đất nước, con người Việt Nam. “Đất Nước” trích trong chương 5 trường ca “Mặt đường khát vọng” của Nguyễn Khoa Điềm góp phần làm phong phú hơn, tươi mới hơn tư tưởng ấy bằng tiếng nói riêng và cách thể hiện độc đáo. Tư tưởng chủ đạo của “Đất Nước” đó là: Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.
II. Thân bài
1. Quan niệm về đất nước qua các triều đại để đi đến giải thích đất nước nhân dân.
Đất nước – một đề tài lớn, một hình tượng trữ tình rất đẹp trong thơ ca Việt Nam, nhưng ở mỗi giai đoạn văn học, mỗi thời kì lịch sử, mỗi tác giả, tác phẩm thì hình tượng ấy lại mang những tư tưởng riêng, lấp lánh màu sắc thẩm mĩ riêng. Ở thời đại gắn với tư tưởng “trung quân ái quốc” vì quan niệm đất nước gắn liền với công lao của đế vương, của các triều đại:
“Nam quốc sơn hà nam đế cư”
(Lý Thường Kiệt)
hay ” Từ Triệu, Đinh, Lý, Trần bao đời xây nền độc lập
Cùng Hán, Đường, Tống, Nguyên mỗi bên xưng đế một phương”
(Nguyễn Trãi)
Thơ văn yêu nước những năm đầu thế kỉ XX tư tưởng này có một bước tiến mới qua tiếng nói của người chí sĩ yêu nước Phan Bội Châu: “Dân là dân nước, nước là nước dân” nhưng dẫu sao vẫn mang dấu ấn của tư tưởng tư sản.
Đến thơ ca Việt Nam thời kì 1945-1975 thì tư tưởng đất nước nhân dân được thế hệ các nhà thơ chiến sĩ nhìn nhận một cách toàn diện hơn, sâu sắc hơn trong mối quan hệ riêng – chung, tôi – ta ở đó có sự hòa quyện và tỏa sáng của tình yêu đất nước và tình yêu đôi lứa. Đất nước của nhân dân đã được các nhà thơ thể hiện đặc sắc và thành công như:
” Ôm đất nước những người áo vải
Đã đứng lên thành những anh hùng”
(Đất nước – Nguyễn Đình Thi)
hay
“Và cứ thế nhân dân thường ít nói
Như mẹ tôi lặng lẽ giữa đời
Và như thế nhân dân cao vòi vọi
Hơn cả những ngôi sao cô độc giữa trời”
(Thanh Thảo)
Và tư tưởng này được Nguyễn Khoa Điềm thể hiện một cách sâu sắc thấm thía trong “Đất Nước”, trích trường ca “Mặt đường khát vọng”.
2. Chứng minh tư tưởng đất nước của nhân dân.
2.1 Đất nước được nhà thơ nhìn nhận và thể hiện qua bề rộng không gian địa lí. (lấy kiến thức đoạn “Đất là nơi anh đến trường….cúi đầu nhớ ngày giỗ tổ” và ” những người vợ nhớ chồng….Bà Đen, Bà Điểm”)
Nhà thơ suy tư về “Đất Nước” qua độ rộng của không gian địa lí để khẳng định đất nước của nhân dân. Theo cảm nhận của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm “Đất nước” là không gian vô cùng gần gũi thân thương, là một cõi đầy thơ mộng, ngọt ngào gắn với bao kỉ niệm của tình yêu mỗi chúng ta:
“Đất là nơi anh đến trường
…
Nước là nơi “con cá ngư ông móng nước biển khơi”
Đất nước là không gian sinh tồn của cộng đồng người Việt qua các thế hệ được tạo lập từ thuở sơ khai với truyền thuyết:
“Thời gian đằng đẵng
Không gian mênh mông
…
Cũng biết cúi đầu nhớ ngày giỗ Tổ”
Nguyễn Khoa Điềm tiếp tục suy tư về Đất Nước qua bề rộng lãnh thổ:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
…
Những người dân nào đã góp nên tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Đất nước trở thành sự sống máu thịt vô cùng thiêng liêng đối với mỗi người tuy chỉ có một phần nhưng đó là linh hồn là sự sống của Đất Nước. Cho nên xây dựng bảo vệ và hi sinh vì Đất Nước là vai trò trách nhiệm cao cả của chúng ta bởi Đất Nước này là Đất Nước của nhân dân. Tác giả đã có cái nhìn thật mới mẻ về vẻ đẹp của Đất Nước, Tổ Quốc gắn với những con người bình dị vô danh.
2.2 Đất nước được thể hiện và cảm nhận trong chiều dài lịch sử (tư liệu từ ” Và ở đâu trên khắp ruộng đồng… cho người sau trồng cây hái trái)
Đoạn trích có cái nhìn rất sâu và rất xa về bốn nghìn năm Đất Nước nhưng đó không phải là thời gian lịch sử xác định mà là thứ tác giả ảo diệu mơ hồ “ngày xửa, ngày xưa” gắn với sự trường tồn của Đất Nước, sức sống mãnh liệt của nhân dân. Nhà thơ khẳng định lại các triều đại như Nguyễn Trãi đã từng viết ” Từ Triệu, Đinh, Lí, Trần bao đời xây nền độc lập…” và cũng không nhắc những tên tuổi lừng danh trong sử sách như Chế Lan Viên:
“Khi Nguyễn Trãi làm thơ và đánh giặc
Nguyễn Du viết Kiều, đất nước hóa thành văn,
Khi Nguyễn Huệ cưỡi voi vào cửa Bắc
Hưng Đạo diệt quân Nguyên trên sông Bạch Đằng…”
mà nghiêng về bày tỏ niềm tự hào lòng biết ơn trân trọng đến lớp lớp những người anh hùng vô danh:
“Không ai nhớ mặt đặt tên
Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”
Những người vô danh ấy đã làm nên giá trị vật chất và giá trị tinh thần truyền lại cho con cháu mai sau:
“Họ giữ và truyền cho ra hạt lúa ta chồng
…
Họ đắp đập be bờ cho người sau trồng cây hái trái”
Từ “họ” đứng ở đầu dòng thơ được điệp đi điệp lại liên tục có tác dụng ca ngợi vai trò to lớn của “họ” trong việc “giữ và truyền” cho con cháu muôn đời những giá trị vật chất và tinh thần. “Họ” mang một tên chung đó là “nhân dân”. Những từ “giữ”, “truyền” xuất hiện với mật độ dày đặc thể hiện sự tiến hóa của lịch sử giống như một cuộc lao động lớn, một cuộc chạy tiếp sức của nhân dân, nhờ có họ “giữ” và “truyền” mà con cháu được thừa hưởng giá trị vật chất và tinh thần. “Hạt lúa” biểu tượng cho giá trị vật chất, cho nền văn minh lúa nước, “ngọn lửa” không chỉ biểu tượng giá trị vật chất mà nó còn biểu tượng cho ngọn lửa của truyền thống cách mạng, ngọn lửa của văn minh, ngọn lửa của sự ấm áp, tin yêu. “Giọng nói” là tiếng nói của nòi giống, của dân tộc, của biểu tượng cho giá trị tinh thần ngàn đời. Quan trọng hơn nhân dân còn là người mở mang bờ cõi, viết tiếp những trang sử hào hùng của dân tộc, làm nên những thành quả cho con cháu mai sau. Lịch sử của đất nước được viết bằng máu của những người không tên, không tuổi để rồi:
“Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Nói về lịch sử mấy nghìn năm của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm không dùng những sử liệu như những nhà thơ khác, cũng không xây dựng những hình ảnh kì vĩ để tụng ca, chiêm ngưỡng mà dùng cách nói giản dị tự nhiên đậm màu sắc dân gian. Đất nước hiện lên từ những cái “ngày xửa ngày xưa….”, trong những câu chuyện cổ tích mẹ kể có ông Bụt, bà Tiên, cô Tấm thảo hiền, có sự tích trầu cau, Thánh Gióng, … Ở đó đất nước gần gũi bình dị mà thiêng liêng với phong tục ăn trầu của bà, tập quán búi tóc sau đầu của mẹ, tình nghĩa của cha, sự vật hàng ngày cái keo, cái cột,…Như vậy lịch sử đất nước dựng lại trong từng câu chuyện cổ xa xưa, gắn với cuộc sống, số phận của nhân dân.
2.3 Đất nước được thể hiện ở bề sâu văn hóa dân tộc qua cái nhìn đầy tự hào của thanh niên yêu nước.
Những phát hiện sâu sắc và mới mẻ về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện ở nguồn mạch phong phú của văn hóa dân tộc, văn học dân gian. Tác giả đã sử dụng và sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc. Nhưng đất nước có từ thời xa xưa mà không hề xa lạ, lại vô cùng gần gũi, thân thiết như câu chuyện mẹ kể, miếng trầu bà ăn… Cái tài tình, tinh tế của Nguyễn Khoa Điềm là lấy ý, lấy hình ảnh của thần thoại cổ tích và câu ca xưa để tạo nên những biểu tượng phong phú, mới lạ, làm tăng thêm nhận thức tình yêu cũng như vẻ đẹp của đất nước, nhân dân trong những giá trị văn hóa, tinh thần vĩnh hằng, bất tận của nhân dân.
Với Nguyễn Khoa Điềm, đất nước của nhân dân là sự hội tụ và kết tinh với bao công sức và khát vọng của nhân dân. Đồng thời nhân dân là người làm ra đất nước cho nên khi viết về đất nước, nhà thơ đưa ta trở về cội nguồn của các giá trị văn hóa đân tộc, tìm thấy những nét nổi bật của tâm hồn, tính cách Việt Nam. Tiêu biểu nhất là tinh thần, là truyền thống thủy chung say đắm trong hạnh phúc tình yêu.
“Dạy anh biết yêu em từ thuở trong nôi
Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn”
Rồi biết quý trọng tình nghĩa, coi trọng đạo nghĩa con người
“Biết quý công cầm vàng những ngày lặn lội”
Nhưng cũng thật quyết liệt với kẻ thù để có được hạnh phúc bền lâu:
“Biết trồng tre đợi ngày thành gậy
Đi trả thù mà không sợ dài lâu”
Đoạn trích khép lại tư tưởng đất nước nhân dân nhưng lại ngời lên trăm dáng, trăm màu của dòng sông văn hóa, đậm đà hương sắc dân gian, linh hồn Việt.
“Ôi những dòng sông bắt nước từ đâu
Mà khi về đất nước mình còn bắt lên câu hát
Người đến hát khi chèo đò kéo thuyền vượt thác
Gợi trăm màu trên trăm dáng sông xanh”
3. Đất nước của ca dao thần thoại
Chứng minh qua nghệ thuật của bài:
– Thơ trữ tình chính luận độc đáo
– Giọng thơ thủ thỉ tâm tình anh-em
– Chất liệu văn hóa dân tộc, văn học dân gian.
Tư tưởng đất nước trong chương thơ được thể hiện qua hình thức thơ trữ tình chính luận độc đáo. Ở đó thơ tụ do phóng túng, thoải mái, tạo nên lối tư duy hiện đại và tính triết luận của tác phẩm nhằm trả lời cho câu hỏi ” Đất nước ta có từ bao giờ?”, “Đất nước là gì?”, “Đất nước của ai?”… Kết hợp nhuần nhuyễn giữa cảm xúc và suy tưởng, giữa yếu tố chính luận và sắc màu trữ tình. Giọng thơ thủ thỉ tâm tình như lời trò chuyện của “anh” với “em” tạo nên âm vang ngân nga, sâu lắng, thiết tha và trang trọng về đất nước nhân dân. Tác giả cũng vận dụng phong phú, sáng tạo các yếu tố văn hóa dân tộc: phong tục tập quán, huyền thoại, huyền sử, lấy ý hình ảnh của ca dao, tục ngữ, thành ngữ…tạo nên những liên tưởng mới mẻ và rất đẹp về đất nước. “Đất nước” là một tác phẩm nghệ thuật của Nguyễn Khoa Điềm mà ở trong đó là một thế giới nghệ thuật rất riêng: Đất nước bình dị gần gũi mà cũng vô cùng sâu xa, thiêng liêng lại bay bổng, lãng mạn và lấp lánh màu sắc ca dao, cổ tích.
III. Kết bài
Nguyễn Khoa Điềm đã góp phần làm phong phú hơn, sâu sắc hơn tư tưởng đất nước nhân dân của thơ ca thời chống Mĩ, đem đến cho người đọc nhận thức sâu sắc về đất nước của nhân dân. “Đất nước” – một giai điệu nhỏ bé trong bản hợp ca về đất nước những năm 1945-1975 nhưng tác phẩm ấy vẫn âm vang một nhịp điệu riêng khó nhầm lẫn nhờ tư tưởng tiến bộ của Nguyễn Khoa Điềm: “Đất nước của nhân dân, của ca dao thần thoại…”. Đất nước sẽ còn được nhắc đến như một bài ca không bao giờ quên.
Dàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - mẫu 2
1. Mở bài
Giới thiệu nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm và Đất nước.
2. Thân bài
“Núi Vọng Phu”: địa danh nổi tiếng gắn với sự tích người vợ hóa đá chờ chồng → khẳng định tình cảm thủy chung, son sắt của người phụ nữ Việt Nam.
Hòn Trống Mái: hai tảng đá xếp chồng lên nhau nằm trên một ngọn núi ở Sầm Sơn, Thanh Hóa → khẳng định tình cảm, sự gắn bó trong tình cảm gia đình, tình cảm vợ chồng.
Tổ Hùng Vương: gắn với truyền thuyết 99 con voi quây bên đền thờ các vua Hùng để phục Tổ → khẳng định niềm tự hào lịch sử vua Hùng.
Núi Bút, Non Nghiên: có hình cây bút và nghiên mực ở Quảng Ngãi, nói lên truyền thống hiếu học của người Việt Nam.
Hạ Long thành: thắng cảnh Hạ Long, một di sản thiên nhiên thế giới.
Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm: sơn danh của những người có công với nước ở Nam Bộ, tự hào về truyền thống chống ngoại xâm của dân tộc.
Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước.
→ Những địa danh được cảm nhận qua những số phận, những cảnh ngộ của con người, sự hóa thân của những con người không tên tuổi như một phần máu thịt của nhân dân. Chính nhân dân bao đời đã tạo nên Đất Nước này, đã ghi dấu ấn cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông.
3. Kết bài
Khái quát lại nội dung và giá trị của đoạn trích: Đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung đã góp phần không nhỏ làm nên sự đa dạng, phong phú cho nền văn học Việt Nam.
Dàn ý Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - mẫu 3
I/ Mở bài:
- Giới thiêu tác giả, tác phẩm
- Giới thiệu đoạn thơ
“ Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi vọng phu,
…
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”.
II/ Thân bài:
1. Trước hết, tác giả nêu ra một cách nhìn mới mẻ, có chiều sâu địa lí về những danh lam thắng cảnh trên khắp các miền đất nước.
- Nhà thơ đã kể, liệt kê một loạt kì quan thiên nhiên trải dài trên lãnh thổ từ Bắc vào Nam như muốn phác thảo tấm bản đồ văn hóa đất nước. Đây là những danh lam thắng cảnh do bàn tay tự nhiên kiến tạo nhưng từ bao đời nay, ông cha ta đã phủ cho nó tính cách, tâm hồn, lẽ sống của dân tộc.
- Trong thực tế, bao thế hệ người Việt đã tạc vào núi sông vẻ đẹp tâm hồn yêu thương thủy chung để ta có những “núi Vọng Phu”, những “hòn Trống mái” như những biểu tượng văn hóa. Hay vẻ đẹp lẽ sống anh hùng của dân tộc trong buổi đầu giữ nước để ta có những “ao đầm”… như những di tích lịch sử về quá trình dựng nước và giữ nước hào hùng…
→ Thiên nhiên được cảm nhận thông qua những cảnh ngộ, số phận của nhân dân, được nhìn nhận như là những đóng góp của nhân dân, sự hóa thân của những con người không tên, không tuổi.
2. Thiên nhiên đất nước, qua cái nhìn của Nguyễn Khoa Điềm, hiện lên như một phần tâm hồn, máu thịt của nhân dân
- Chính nhân dân đã tạo dựng nên đất nước này, đã đặt tên, ghi dấu vết cuộc đời mình lên mỗi ngọn núi, dòng sông, tấc đất này. Từ những hình ảnh, những cảnh vật, hiện tượng cụ thể, nhà thơ đã “quy nạp” thành một khái quát sâu sắc.
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…”.
III/ Kết bài:
- Khái quát lại giá trị nội dung và giá trị nghệ thuật của đoạn thơ.
Văn mẫu Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước
Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 1
Nền văn học Việt Nam đã ghi danh tên tuổi của bao nhà văn, nhà thơ, trong đó không thể không nhắc đến tác giả Nguyễn Khoa Điềm cùng bản Trường ca Mặt đường khát vọng. Nổi bật trong bản trường ca là văn bản Đất nước. Ở đây, tác giả đã khẳng định tư tưởng đất nước là của nhân dân:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
….………………………………………
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Nguyễn Khoa Điềm thật khéo léo và tinh tế khi đã vận dụng sáng tạo thành công chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng biệt không thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung thủy. Dù ở bất cứ nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn vinh.
Không chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị anh hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu truyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta.
Chúng ta có thể tự hào rằng Đất nước này là đất nước của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn kên trở thành nhân tài cho đất nước, đánh dấu công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta biết ơn, học tập và noi theo.
Đất nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé: những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên ơn họ và tôn vinh những giá trị quý báu mà họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên đất nước này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, không vì thế mà lối sống cha ông đi vào dĩ vãng, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau này.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ nói riêng và bài thơ nói chung vẫn để lại những ấn tượng sâu sắc trong lòng bạn đọc và giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp trường tồn với thời gian và giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó.
Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 2
Con người Việt Nam ta từ xưa đến nay tinh thần yêu nước, lòng dũng cảm luôn chảy trong dòng máu, sẵn sàng chiến đấu, hi sinh để bảo vệ độc lập tự do cho Tổ quốc. Trong những năm tháng kháng chiến chống Mĩ gian khổ, có biết bao nhiêu bài thơ, bài văn ra đời để cổ vũ tinh thần chiến đấu cho quân và dân ta ngoài mặt trận. Một trong số các tác phẩm khơi gợi lòng yêu nước đó không thể không kể đến Trường ca Mặt đường khát vọng của tác giả Nguyễn Khoa Điềm mà nổi bật là đoạn trích Đất nước. Qua đoạn trích, tác giả đã khẳng định tư tưởng đất nước là của nhân dân.
Nguyễn Khoa Điềm được biết đến là nhà thơ với phong cách trữ tình chính luận độc đáo. Thơ Nguyễn Khoa Điềm thu hút, hấp dẫn người đọc bởi sự đan kết cảm xúc nồng nàn và suy tư sâu lắng của một thanh niên tri thức tự ý thức sâu sắc về vai trò, trách nhiệm của mình trong cuộc chiến đấu vì đất nước và nhân dân. “Trường ca Mặt đường khát vọng” là một tác phẩm tiêu biểu cho phong cách thơ văn của ông. Đoạn trích Đất nước thuộc chương V của bản Trường ca mang đến cho bạn đọc cái nhìn mới mẻ về hình hài của Đất nước. Bên cạnh đó, tác giả cũng ngầm khẳng định: Đất nước là của nhân dân.
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu
….………………………………………
Những cuộc đời đã hoá núi sông ta…”
Nguyễn Khoa Điềm thật khéo léo và tinh tế khi đã vận dụng sáng tạo thành công chất liệu dân gian vào bài thơ của mình để tạo nét riêng biệt không thể nhầm lẫn. Đó là sự tích hòn Vọng Phu nói về tình cảm thủy chung, son sắt chờ chồng đến hóa đá của người phụ nữ. Đó là tình hòn Trống Mái gắn với truyền thuyết tình cảm vợ chồng chung thủy. Dù ở bất cứ nơi nào trên đất nước, bờ cõi này thì tình cảm yêu thương, gắn bó vợ chồng vẫn là những tình cảm vô cùng tốt đẹp xứng đáng được tôn vinh.
Không chỉ có tình yêu đôi lứa, tình cảm vợ chồng, Nguyễn Khoa Điềm còn tôn vinh cả nền lịch sử với lòng yêu nước nồng nàn của dân tộc ta. Đó là vị anh hùng Thánh Gióng nhỏ tuổi nhưng khi có giặc anh dũng ra trận đánh đuổi giặc Ân lấy lại độc lập cho nước nhà. Đó là mảnh đất Tổ thờ vua Hùng vô cùng linh thiêng với sự quây quần của đàn voi chín mươi chín con. Tất cả những câu chuyện, những sự tích, truyền thuyết trên đều rất thân thuộc với mỗi thế hệ con dân trên Đất nước này, trở thành niềm tự hào vô bờ bến của chúng ta.
Chúng ta có thể tự hào rằng Đất nước này là đất nước của những con người hiếu học. Biết bao tấm gương nghèo vượt khó vươn lên trở thành nhân tài cho đất nước, đánh dấu công lao của mình bằng những núi Bút, non Nghiên. Dù họ là những người nổi tiếng hay chỉ là những con người vô danh thì họ cũng đáng để chúng ta biết ơn, học tập và noi theo.
Đất nước còn được hình thành từ những điều hết sức nhỏ bé: những quả núi hình con cóc, con gà quây quần cũng giúp cho Hạ Long trở thành di sản thế giới. Những ngọn núi khác cũng được đặt theo tên của các vị anh hùng để con cháu mai sau không quên ơn họ và tôn vinh những giá trị quý báu mà họ đã gây dựng cho nước nhà. Những ao đầm, gò bãi là sự hóa thân của những con người làm nên Đất Nước. Ở trên đất nước này đâu đâu cũng mang dáng dấp, những kỉ niệm của thế hệ ông cha. Hành trình hơn bốn nghìn năm lịch sử vẫn sẽ tiếp tục mãi mãi và cũng sẽ có nhiều hơn những kỉ niệm, những giai thoại được ghi vào sử sách. Tuy nhiên, không vì thế mà lối sống cha ông đi vào dĩ vãng, nó mãi là những tiếng âm vang, là niềm tự hào của con cháu sau này.
Nhiều năm tháng qua đi nhưng đoạn thơ cùng với trường ca “Mặt đường khát vọng” vẫn giữ nguyên vẹn những giá trị tốt đẹp ban đầu của nó và để lại ấn tượng đẹp đẽ, đọng lại trong tâm tư của bao thế hệ con người Việt Nam trước đây, bây giờ và cả sau này. Bản trường ca của tác giả Nguyễn Khoa Điềm làm ta thêm hiểu và yêu Đất nước đồng thời thôi thúc bản thân hành động để bảo vệ và phát triển đất nước này.
Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 3
Nguyễn Khoa Điềm là gương mặt nhà thơ tiêu biểu của thế hệ thơ trẻ trong những năm kháng chiến chống Mỹ. Viết về cuộc kháng chiến bằng những trải nghiệm chân thực với hồn thơ giàu chất suy tư, lắng đọng, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được tình yêu nước, tâm tư của người trí thức tích cực tham gia vào cuộc chiến đấu của nhân dân. “Đất nước” là đoạn trích đặc sắc trích trong tác phẩm trường ca Mặt đường khát vọng, tác phẩm thể hiện rõ nét tài năng và tâm huyết của Nguyễn Khoa Điềm. Qua bài thơ tác giả đã thể hiện được những cảm nhận riêng biệt mà vô cùng độc đáo và đất nước.
Trong bài thơ Đất nước, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện được cái nhìn sâu sắc khi phát hiện ra những biểu hiện đầy mới mẻ của khái niệm “đất nước”. Trước hết, đó chính là những phát hiện mới mẻ về phương diện không gian địa lí của đất nước:
“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước nhưng núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương”
Trong nhận thức của nhà thơ, không gian địa lí, địa danh, hình hài của đất nước được tạo nên từ chính những điều gần gũi, thiêng liêng nhất bởi đó là sự hóa thân của nhân dân: Hòn Vọng Phu được làm nên từ nỗi nhớ chồng của người vợ, tình yêu thủy chung của cặp vợ chồng làm nên hòn Trống Mái, đó còn là những địa danh được làm nên từ truyền thống chống giặc hào hùng, bất khuất “gót ngựa Thánh Gióng” từ nền văn hóa đậm đà của dân tộc “chín mươi chín con voi”.
Nhân dân, những con người bình dị cùng nhau sinh sống trong đất nước, đó là những con người vô danh nhưng những con người vô danh ấy đã cùng nhau gây dựng nên cái hữu danh của đất nước. Mỗi người đều lặng lẽ góp phần làm nên vẻ đẹp, sự kì thú của thiên nhiên cũng như làm phong phú hơn cho những truyền thống văn hóa của đất nước.
“Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên
Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm”
Đất nước là hóa thân, hình ảnh của nhân dân, những con người vô danh nhưng lại có thể làm nên hình hài, diện mạo cho đất nước. Không chỉ hướng ngòi bút đến sự trù phú, tươi đẹp của thiên nhiên đất nước mà tác giả Nguyễn Khoa Điềm còn thể hiện sự suy ngẫm mang tính triết lí sâu sắc về vẻ đẹp tâm hồn của con người, lịch sử Việt Nam. Đó là truyền thống hiếu học, là tinh thần đấu tranh kiên cường, bất khuất của của những con người Việt Nam để làm nên những truyền thống hào hùng, đáng tự hào của dân tộc.
“Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng mang một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi đất nước sau bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta”
Từ những cuộc đời, những hóa thân cụ thể, tác giả Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện những nhận thức sâu sắc hơn về mối quan hệ gắn bó giữa thiên nhiên và con người, giữa đất nước với nhân dân. Cũng qua khổ thơ, tác giả đã bộc lộ được niềm tự hào khôn xiết trước vẻ đẹp của thiên nhiên, vóc dáng, dáng hình của quê hương và những giá trị truyền thống quý báu của dân tộc. Đó còn là thái độ yêu thương, trân trọng, tự hào trước những đóng góp lớn lao của thế hệ cha ông đi trước.
Đất nước là sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa chất chính luận trữ tình và chất suy tưởng mang đến những giá trị tư tưởng đặc sắc cho tác phẩm. Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng linh hoạt chất liệu dân gian, đưa vào những yếu tố văn hóa đậm nét, nổi bật để thể hiện những cảm nhận độc đáo về đất nước.
Đoạn thơ đã thể hiện được tư tưởng đất nước của nhân dân của nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm, đây cũng là đóng góp mới lạ, độc đáo về chủ đề đất nước. Đất nước đã mang đến cho người đọc bao cảm xúc tự hào, khơi dậy ý thức trách nhiệm của mỗi cá nhân đối với đất nước.
Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 4
Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên: ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên
Con có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Thực chất những danh thắng ấy là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng ngàn, hàng vạn năm chứ. Không khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh ấy. Những núi vọng phu: trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ ấy. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện hóa đá để muôn đời ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt. Không có tinh thần đoàn kết một lòng tất không thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Không có tinh thần vượt khó, hiếu học, không có núi bút non Nghiên. Và bất cứ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân diệu kì, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt. Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng.
Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát tính chiết luận:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng màng một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Đâu chỉ có những địa danh như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân diệu kì của nhân dân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ.
Mạch thơ thể hiện rõ tư duy logic, đi từ cụ thể đến khái quát, một cách khái quát đầy cảm xúc, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng
Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 5
Tình yêu tha thiết của Lênin dành cho nước Nga cũng là tiếng lòng của biết bao nhiêu nghệ sĩ khắp dải đất Việt Nam. Cùng thể hiện tình yêu quê hương, đất nước sâu nặng nhưng mỗi nhà thơ lại có tiếng nói riêng độc đáo. Trường ca “Mặt đường khát vọng” với “Đất Nước” đã đưa chúng ta đến một Đất Nước giản dị mà rất đỗi đời thường – Đất Nước của nhân dân. Với một lối đi cho riêng mình, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện sâu sắc về địa lí, lịch sử, văn hóa của Đất Nước:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu
………………………………………………………
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Chia sẻ về ý tưởng đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm từng khẳng định: Tôi cố gắng … khác. Quả đúng như vậy, khám phá vẻ đẹp của Đất Nước trong không gian mênh mông, Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ngợi ca núi sông hùng vĩ mà thơ mộng với rừng xanh đồi cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt, biển lúa mênh mông, cánh cò dập dờn… như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bao nhà thơ khác. Với một lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ sâu sắc.
Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên: ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên
Con có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Thực chất những danh thắng ấy là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng ngàn, hàng vạn năm chứ. Không khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh ấy. Những núi vọng phu: trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ ấy. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện hóa đá để muôn đời ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt. Không có tinh thần đoàn kết một lòng tất không thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Không có tinh thần vượt khó, hiếu học, không có núi bút non Nghiên. Và bất cứ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân diệu kì, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt. Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quý, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng.
Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát tính chiết luận:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng màng một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năm ta cũng thấy
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Đâu chỉ có những địa danh như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân diệu kì của nhân dân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ. Mạch thơ thể hiện rõ tư duy logic, đi từ cụ thể đến khái quát, một cách khái quát đầy cảm xúc, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng.
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình phát triển trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Đến giai đoạn văn học cách mạng, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh ác liệt. Điều này được thể hiện qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước (Nguyễn Đình Thi), Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh),… Tuy nhiên, chỉ khi đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã trở thành hệ quy chiếu khiến nhà thơ có những khám phá mới mẻ, sâu sắc về Đất Nước qua không gian địa lí, thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Đặc biệt, Đất Nước của nhân dân đã vang lên thành lời thành tiếng:
Để Đất Nước là Đất Nước của nhân dân.
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại.
Thành công của đoạn trích Đất Nước là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không khí, một giọng điệu, đưa ta vào thế giới gần gũi của ca dao dân ca, truyền thuyết văn hóa. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mỹ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của da dao thần thoại”.
Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và trữ tình, suy tư sâu lắng và cảm xúc nồng nàn. Chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ngợi ca tâm hồn nhân dân, khẳng định nòi giống mà dáng đứng Việt Nam. Nhân dân là chủ Đất Nước, Đất Nước là của nhân dân.
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình phát triển trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Đến giai đoạn văn học cách mạng, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh ác liệt. Điều này được thể hiện qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước (Nguyễn Đình Thi), Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh),… Tuy nhiên, chỉ khi đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo.
Tư tưởng đất nước là của nhân dân qua bài thơ Đất nước - Bài tham khảo 6
Ôi! Nếu thiên thần lên tiếng gọi
Bỏ nước Nga lên sống ở thiên đường
Tôi sẽ đáp thiên đường xin để đấy
Cho tôi ở cùng Tổ quốc yêu thương
Tình yêu tha thiết của Ênixin dành cho nước Nga cũng là tiếng lòng của biết bao nhiêu nghệ sĩ khắp dải đất Việt Nam. Cùng thể hiện tình yêu quê hương, đât nước sâu nặng nhưng mỗi nhà thơ lại có tiếng nói riêng độc đáo. Trường ca “Mặt đường khát vọng” với “Đất Nước” đã đưa chúng ta đến một Đất Nước giản dị mà rất đỗi đời thường – Đất Nước của nhân dân. Với một lối đi cho riêng mình, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện sâu sắc về địa lí, lịch sử, văn hóa của Đất Nước:
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu
………………………………………………………
Những cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Chia sẻ về ý tưởng đoạn trích Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm từng khẳng định: Tôi cố gắng… khác. Quả đúng như vậy, kháp phá vẻ đẹp của Đất Nước trong không gian mênh mông, Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ngợi ca núi sông hùng vĩ mà thơ mộng với rừng xanh đồi cọ đồi chè, đồng xanh ngào ngạt, biển lúa mênh mông, cánh cò dập dờn… như Tố Hữu, Nguyễn Đình Thi và bao nhà thơ khác. Với một lối đi riêng, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ sâu sắc.
Nguyễn Khoa Điềm đã bao quát chiều dài, chiều rộng của Đất Nước, từ bắc chí nam, từ miền ngược tới miền xuôi, từ núi rừng tới biển cả, tự hào về bao danh lam thắng cảnh của Đất Nước như núi vọng phu, hòn Trống Mái, vịnh Hạ Long, đất Tổ Hùng Vương và bao địa danh mang tên: ông Đốc, ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm.
Những người vợ nhớ chồng còn góp cho những núi Vọng Phu
Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái
Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại
Chín mươi con voi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương
Những con rồng năm in góp dòng sông xanh thẳm
Người học trò nghèo góp cho Đất Nước núi Bút, non Nghiên
Con có, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh
Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm
Thực chất những danh thắng ấy là kết quả của quá trình vận động địa chất, kiến tạo địa lí từ hàng ngàn, hàng vạn năm chứ. Không khám phá dưới góc độ khoa học, với suy từ sâu sắc, Nguyễn Khoa Điềm đã có những phát hiện mới mẻ về những danh lam thắng cảnh ấy. Những núi vọng phu: trải dài từ Bắc vào Nam, từ đỉnh Lũng Cú xuống mũi Cà Mau chính là sự hóa thân của những người vợ, người chồng. Tấm lòng thủy chung son sắt của người phụ nữ Việt đã tạo nên dáng núi kì lạ ấy. Hòn Trống Mái ở Sầm Sơn, vịnh Hạ Long ở Quảng Ninh là biểu tượng đẹp đẽ cho tình yêu thắm thiết nồng nàn. Một kẻ trần thế, một người cõi tiên bất chấp luật lệ thiên đình, nguyện hóa đá để muôn đời ở mãi bên nhau. Những ao đầm dày đặc ở vùng đất Sóc Sơn là những hình ảnh bất tử về tinh thần yêu nước nồng nàn, khí phách kiên cường bất khuất của những người dân đất Việt. Không có tinh thần đoàn kết một lòng tất không thể có Tổ quốc linh thiêng, hùng vĩ. Không có tinh thần vượt khó, hiếu học, không có núi bút non Nghiên. Và bất cứ danh lam thắng cảnh nào trên dải đất hình chữ S cũng là máu thịt của nhân dân. Vậy là mọi danh lam thắng cảnh đều là kết quả của sự hóa thân diệu kì, của bao thế hệ nhân dân lao động. Mỗi hình sông dáng núi, bóng đèo đều in dấu dáng hình, tâm tư tình cảm, ao ước, khát vọng, tính cách, phẩm chất của những con người Đất Việt Mỗi danh lam là một bức tượng đài bất tử về vẻ đẹp tâm hồn người Việt. Ngợi ca núi sông hùng vĩ, diễm lệ thực chất là ngợi ca, tôn vinh vẻ đẹp tâm hồn của nhân dân. Không có nhân dân bao đời với tâm hồn cao quí, khát vọng lãng mạn thì không có những thắng cảnh kì thú để con cháu đời đời chiêm ngưỡng.
Từ những khám phá mới mẻ, với những danh lam thắng cảnh cụ thể, nổi tiếng của Đất Nước, Nguyễn Khoa Điềm đã đi đến những khái quát tính chiết luận:
Và ở đâu trên khắp ruộng đồng gò bãi
Chẳng màng một dáng hình, một ao ước, một lối sống ông cha
Ôi Đất Nước sau bốn nghìn năn ta cũng thấy
Nhũng cuộc đời đã hóa núi sông ta…
Đâu chỉ có những địa dnah như núi vọng phu, hòn Trống Mái, sự hóa thân diệu kì của nhân dân mà tất cả ruộng đồng, đồi nương, gò bãi đều in dáng hình, bàn tay, khối óc, ước mơ, khát vọng, lối sống của ông cha ta. Ngẫm về công lao to lớn của nhân dân, về truyền thống của ông cha thuở trước, Nguyễn Khoa Điềm không khỏi rưng rưng bồi hồi xúc động, rạo rực niềm mến yêu, tự hào. Thán từ “ôi” và dấu ba chấm cuối đoạn đã truyền đến người đọc nguyên vẹn cảm xúc ấy. Khúc thơ tiêu biểu cho vẻ đẹp của thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và chất trữ tình, giữa thế núi kì thú và Nguyễn Khoa Điềm đã cắt những câu hỏi đó bằng suy từ lắng của mình, bằng những hình ảnh giàu chất thơ. Mạch thơ thể hiện rõ tư duy logic, đi từ cụ thể đến khái quát, một cách khái quát đầy cảm xúc, rưng rưng xúc động. Đoạn thơ cũng đầy ắp chất liệu văn học dân gian. Đó là những sự tích huyền thoại, truyền thuyết. Chính chất liệu dân gian độc đáo, mới mẻ ấy đã mở ra một thế giới vừa bình dị, mộc mạc, vừa thiêng liêng bay bổng.
Tư tưởng Đất Nước của nhân dân thực ra đã có một quá trình phát triển trong lịch sử dân tộc nói chung, văn học nói riêng. Những nhà văn lớn, nhà tư tưởng lớn của dân tộc đã từng nói lên vai trò của nhân dân như Nguyễn Trãi, Phan Bội Châu,… Đến giai đoạn văn học cách mạng, tư tưởng của nhân dân một lần nữa được nhận thức sâu sắc thêm bởi vai trò và đóng góp to lớn của nhân dân trong vô vàn những cuộc đấu tranh ác liệt. Điều này được thể hiện qua một số cây bút tiêu biểu như Đất Nước (Nguyễn Đình Thi), Đường tới thành phố (Hữu Thỉnh),… Tuy nhiên, chỉ khi đến “Đất Nước” của Nguyễn Khoa Điềm, tư tưởng của nhân dân mới trở thành cảm hứng chủ đạo. Tư tưởng Đất Nước của nhân dân đã trở thành hệ quy chiếu khiến nhà thơ có những khám phá mới mẻ, sâu sắc về Đất Nước qua không gian địa lí, thời gian lịch sử và chiều sâu văn hóa. Đặc biệt, Đất Nước của nhân dân đã vang lên thành lời thành tiếng:
Để Đất Nước là Đất Nước của nhân dân.
Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao thần thoại
Thành công của đoạn trích Đất Nước là Nguyễn Khoa Điềm đã tạo ra một không khí, một giọng điệu, đưa ta vào thế giới gần gũi của ca dao dân ca, truyền thuyết văn hóa. Đó chính là nét đặc sắc thẩm mĩ, thống nhất với tư tưởng “Đất Nước của nhân dân, Đất Nước của da dao thần thoại”
Đoạn thơ trên đây tiêu biểu cho cái hay, cái đẹp của hồn thơ Nguyễn Khoa Điềm. Ở đây có sự kết hợp nhuần nhuyễn giữa tính chính luận và trữ tình, suy tư sâu lắng và cảm xúc nồng nàn. Chất liệu văn hóa dân gian được vận dụng sáng tạo. Qua hình tượng Đất Nước mà nhà thơ ngợi ca tâm hồn nhân dân, khẳng định nòi giống mà dáng đừng Việt Nam. Nhân dân là chủ Đất Nước, Đất Nước là của nhân dân.
Tham khảo thêm: Mở bài Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm
Mở bài phân tích bài thơ Đất nước mẫu 1
Đất nước là đề tài muôn thuở của thơ văn Việt Nam. Chúng ta đã bắt gặp đất nước chìm trong đau thương, mất mát qua thơ Hoàng Cầm; gặp đất nước đang đổi mới từng ngày qua thơ Nguyễn Đình Thi. Nhưng có lẽ đất nước được nhìn từ nhiều khía cạnh, đầy đủ và trọn vẹn nhất qua bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm. Đất nước là tên gọi thiêng liêng, bình dị nhưng chất chứa bao nhiêu ngọn nguồn của cảm xúc chính tác giả.
Mở bài phân tích bài thơ Đất nước mẫu 2
Nguyễn Khoa Điềm là một trong những nhà thơ tiêu biểu của thế hệ trẻ thời chống Mĩ. Ông là nhà thơ trưởng thành từ ghế nhà trường xã hội chủ nghĩa, không chỉ tiếp thu trình độ văn hóa mới, lí tưởng mới, ông còn là thế hệ thanh niên trẻ tích cực tham gia trực tiếp vào cuộc kháng chiến của dân tộc. Chính vì vậy, những áng thơ của ông luôn cháy bỏng tình yêu quê hương, đất nước. Đất Nước là một bài thơ như vậy. Nó là đứa con tinh thần, là khát vọng chất chứa của ông, viết về sự thức tỉnh của tuổi trẻ hướng về cuộc kháng chiến chung của dân tộc.
Mẫu mở bài phân tích khổ thơ đầu đoạn trích Đất nước
Dân gian ta có câu: “Uống nước nhớ nguồn.” Dù ở đâu, làm gì thì mỗi chúng ta cũng phải nhớ về quê hương, về cội nguồn dân tộc. Nhưng liệu mấy ai hiểu thế nào là cội nguồn đất nước, cội nguồn dân tộc? Thắc mắc này đã được nhà thơ Nguyễn Khoa Điềm lí giải vô cùng cặn kẽ và bình dị ở khổ thơ đầu tiên của Đất nước (trích Trường ca Mặt đường khát vọng).
Phân tích tư tưởng của nhân dân qua đoạn thơ: ''Những người vợ nhớ chồng… Những cuộc đời đã hóa núi sông ta'' trong Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm được Khoahoc chia sẻ trên đây. Hy vọng với bài văn mẫu này sẽ giúp ích cho các em có thêm tài liệu tham khảo, trau dồi kỹ năng viết bài từ đó hoàn thiện bài văn của mình hay hơn, sinh động hơn. Chúc các em học tốt, ngoài việc tham khảo bài văn mẫu trên các em có thể tham khảo thêm các môn học khác có tại, tài liệu học tập lớp 12 này nhé
Xem thêm bài viết khác
- Nghị luận xã hội về trân trọng cuộc sống mỗi ngày Nghị luận xã hội 200 chữ - Văn mẫu 12
- Giá trị nhân đạo của tác phẩm Vợ chồng A Phủ Vợ chồng A Phủ - Văn mẫu 12
- Cảm nhận về hình tượng nhân vật Mị trong hai đoạn văn sau “Lần lần, mấy năm qua…. Mị sẽ ăn cho chết ngay, chứ không buồn nhớ lại nữa” Văn mẫu 12
- Nghị luận xã hội 200 chữ bàn về sức mạnh niềm tin Nghị luận bàn về sức mạnh niềm tin - Văn mẫu 12
- Phân tích vẻ đẹp hung bạo của Sông Đà Văn mẫu 12
- Công thức tính thể tích khối hộp chữ nhật Toán lớp 12
- Phân tích sức sống tiềm tàng của Mị trong đêm tình mùa xuân Sức sống tiềm tàng của nhân vật Mị trong đêm tình mùa xuân
- Đề KSCL học kì 2 môn Toán THPT Ngô Gia Tự năm 2022 Đề thi thử THPT Quốc gia 2022
- Đề thi thử THPT Quốc gia 2022 môn Toán Sở GD&ĐT Gia Lai Đề thi thử THPT Quốc gia 2022 - có đáp án
- Đề thi thử THPT Quốc gia 2022 môn Toán Chuyên Hùng Vương - Gia Lai (lần 1) Đề thi thử THPT Quốc gia 2022 - có đáp án
- Đề thi thử THPT Quốc gia 2022 môn Toán Sở GD&ĐT Nam Định (lần 1) Đề thi thử THPT Quốc gia 2022 - có đáp án