Văn mẫu 11 bài viết số 2 đề 1: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
Bài viết tập làm văn số 2 - ngữ văn lớp 11 đề:Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh". Sau đây, KhoaHoc gửi đến cho bạn đọc những bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung bài gồm:
- Dàn bài: Cảm nghĩ về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh
- Bài mẫu 1: Nghị luận văn học - Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
- Bài mẫu 2: Nghị luận văn học - Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
- Bài mẫu 3: Nghị luận văn học - Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
- Bài mẫu 4: Nghị luận văn học - Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
- Bài mẫu 5: Nghị luận văn học - Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
Dàn bài: Cảm nghĩ về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích Vào phủ Chúa Trịnh
Mở bài:
- Giới thiệu khái quát về tác giả và đoạn trích.
- Cuộc sống giàu sang, xa hoa, phù phiếm đầy giả tạo của chúa Trịnh
- Khắc họa rõ nét chân dung ốm yếu đầy bệnh hoạn của Trịnh Cán, điển hình sự suy đồi của tập đoàn phong kiến Đàng Ngoài
Thân bài:
- Bức tranh hiện thực sinh động về cuộc sống xa hoa nơi phủ chúa:
- Quang cảnh nơi phủ chúa hiện thực lên cực kì xa hoa, tráng lệ và không kém phần thâm nghiêm. Quang cảnh nói lên uy quyền tột bậc của nhà chút.
- Đồ đạc nhân gian chưa từng thấy
- Lầu son gác tía, rèm châu, hiên ngọc, sập vàng
- + Cùng với sự xa hoa trong quanh cảnh là cung cách sinh hoạt thượng lưu, quyền quý đầy kiểu cách.
- Bức chân dung Trịnh Cán
- Vây quanh cậu bé bao nhiêu là vật dụng (gấm vóc lụa là, vàng, ngọc, sập, nến, đèn, hương hoa, màn trướng,…)
- Người hầu hạ, cung tần, mĩ nữ đứng gần hoặc chực ở xa. Tất cả chỉ là cái bóng vật vờ, mờ ảo, thiếu sinh khí
- Thái độ và dự cảm của tác giả: phê phán nhẹ nhàng mà thấm thía của tác giả; đồng thời dự cảm được sự suy tàn đang tới gần của giai cấp thống trị Lê – Trịnh thế kỉ XVIII.
Kết bài: Khái quát lại giá trị hiện thực của tác phẩm
Bài mẫu 1: Nghị luận văn học - Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
Bài làm
Không chỉ là một danh y lỗi lạc của đất nước thế kỉ XVIII và mãi mãi muôn đời sau, Lê Hữu Trác còn là một thi nhân, một văn nhân tài ba của nền văn học Việt Nam đến tác phẩm Thượng kinh kí sự của ông, thế kí văn học nước nhà mới thực sự ra đời. Thượng kinh ki sự là một tác phẩm kí độc đáo, mang giá trị hiện thực sâu sắc. Ta có thể cảm nhận giá trị ấy qua đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh của tác phẩm.
Lê Hữu Trác sinh năm 1724, mất năm 1791, nghĩa là cuộc đời ông nằm trọn trong thời kì lịch sử nhiều biến động thăng trầm nhất của lịch sử nước nhà: thời kì các tập đoàn phong kiến Lê – Trịnh tranh giành quyền lực, nhân dân cực khổ trăm bề, khởi nghĩa nông dân bùng nổ dữ dội,… Đặc biệt, sự xa hoa, trụy lạc, chuyên quyền nơi phủ chúa Trịnh càng khiến bức tranh lịch sử vốn đã đẫm màu đau thương nay lại thêm phần tối đen, xám xịt.
Là một danh y tài năng nức tiếng xa gần, Hải Thượng Lãn Ông đã được mời vào cung chữa bệnh cho thế tử nơi phủ chúa Trinh – chữa thứ bệnh con nhà giàu, vì dư ăn thừa mặc mà mắc phải. Sự thực ấy đặt vào hoàn cảnh dân chúng lầm than cơ cực, bị bóc lột đến tận xương tủy chỉ khiến người ta thấy đau đớn, chua xót và bất bình. Nhân chuyến lên kinh – một lần mà nhớ mãi, và cảm thán mà Lãn Ông đã viết Thượng kinh kí sự ghi lại những điều tai nghe mắt thấy và những suy nghĩ cảm xúc của mình nơi sang nhất trời Nam.
Đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh ghi lại ngày đầu Lê Hữu Trác được triệu vào phủ chúa. Qua miêu tả cảnh vật và cung cách sinh hoạt chốn quyền uy lừng lẫy, đoạn trích đã thể hiện giá trị hiện thực sâu sắc.
Cảnh vật phủ chúa là điều đầu tiên tác giả cảm nhận được. Nó là dấu hiệu đầu tiên đánh dấu sự khác biệt nơi đế đô hoa lệ và chốn dân gian cát bụi. Vạn vật mới đẹp đẽ, xinh xắn, lộng lẫy làm sao! “Đâu đâu cũng là cây cối um tùm, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương”. Nhưng đó không phải thứ cây cối hoang dại bụi bờ, không phải giống chim sâu, chim sẻ,… Đó đều là giống cỏ lạ chim quý “những cái cây lạ lùng và những hòn đá kì lạ”, tất thảy đều “thật là xinh đẹp”. Chưa hết. Thành quách nơi này mới thực lầu son gác tía. Kiểu cách xây dựng thật công phu “Mấy lần cửa” tiếp nhau, “những dây hành lang quanh co nối tiếp”. Nó tạo nên những phủ chúa cao rộng, lộng lẫy, nguy nga “cái nhà lớn thật là cao và rộng”, “sập sơn son thếp vàng. Cảnh vật ấy khiến tác giả không cầm lòng được phải ngợi ca:
Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu hiên ngọc, bóng mai ánh vào
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới,
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen.
Đây thực là nơi “Cả trời Nam sang nhất là đây”!
Đáng lưu ý là ở tâm sự của tác giả: Ông từng là kẻ xuất thân cao quý, chốn phồn hoa đi lại cũng nhiều, “sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành mình cũng đã từng biết”; vậy mà chốn phủ chúa này đã khiến ông phải choáng ngợp, trầm trồ “Bước chân đến đây mới hay cảnh giàu sang của vua chúa thực khác hẳn người thường” Lê Hữu Trác tự thấy mình như kẻ “quê mùa” lần đầu đến nơi “cung cấm”, như chàng “ngư phủ” gặp chốn “đào nguyên”. Sự liên tưởng ấy thật đắt giá biết chừng nào. Điều đó phản ánh một sự thực lịch sử: trong cuộc tranh giành quyền lực lịch sử, nhà Trịnh đang giành thế thượng phong, uy quyền phủ chúa lấn át cả cung vua, trong khi phủ chúa lộng lẫy, xa hoa, cung vua chẳng khác nào một cái nhà lớn rỗng trong, tứ bề gió lùa hoang phế.
Còn nhớ trong Vũ trung tùy bút, Phạm Đình Hổ đã có lần ngậm ngùi “Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chôn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Như vậy hỏi sao chốn đây không thơm lừng hoa thơm cỏ lạ cho được? Cảnh vật nơi này, bên cạnh vẻ đẹp của chốn non Bồng nước Nhược, nó còn phản ánh một sự thực là lòng tham vô đáy, sự ích kỉ hẹp hòi của phường quan chúa. Cũng trong Vũ trung tùy bút, một sự thực đất nước khi đó được phản ánh thật đau lòng. Nhân dân phải “chịu hại về việc binh đao đến mười tám năm”, nhiều nơi "ruộng đất hầu thành rừng rậm”. Tình cảnh ấy tất yếu dẫn đến thảm cảnh “Những người dân sống sót phải đi bóc vỏ cây, bắt chuột mà ăn”. Thậm chí, có bậc nho sinh trên đường đi ghé vào một hàng cơm, khi ăn thì thấy “trên mặt nước bát canh thịt nổi sao lên như hình bán nguyệt (…) thấy có con rận chết ở trên mặt bát mới biết là thịt người…”. Chao ôi! Vậy mà phủ chúa vẫn rộn ràng, bình yên như thế, có ai lắng nghe thấy tiếng khóc hờ của những oan hồn thảm khốc chốn dân gian?
Đồng điệu với cảnh vật chốn này nhưng thêm ngàn lần tương phản với đời sống nhân dân trăm họ là những con người nơi phủ chúa và cung cách sinh hoạt cầu kì, kiểu cách, xa hoa, bệnh hoạn của họ.
Không phải vô tình Lê Hữu Trác tả kĩ mọi sự việc mắt thấy tai nghe đến thế. Phải trách những sự ấy quá lạ lẫm, đặc biệt, nó khác với lẽ thường vốn có.
Tác phong làm việc của họ thật khó hiểu! Đi đón một danh y chữa trị cho bậc vua chúa, họ “gõ cửa rất gấp” “vừa nói vừa thở hổn hển” vào “buổi sáng tinh mơ”. Thời gian ấy, cách gọi cửa ấy khiến ta ngỡ tình trạng người bệnh đà nguy kịch lắm. Đó là chưa nhắc đến cách vội vã khi đi đường của họ “cáng chạy như ngựa lồng, tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Thân già, phận thấp, tác giả đành cam lòng chứ còn biết làm sao?!
Nhưng thật bất ngờ! Vào đến phủ chúa, ta không khỏi kinh ngạc. Những tưởng nó thê lương, đau đớn vì sắp mất đi một người thân (gọi, “mời” thầy thuốc vội vã đến thế kia mà?) nhưng không, vội và, “hổn hển” là ai kia, là lũ lính hầu, bọn “đầy tớ” “giữ cửa”, “vệ sĩ”,… chứ không phải bậc quan, bậc chúa. Trước khi vào hầu mạch cho thế tử, Hải Thượng Lãn Ông phải “đi qua mấy lần cửa”, qua “những dãy hành lang quanh co nối tiếp nhau”, rồi lại “qua mấy lần cửa” (có lẽ vì nhiều cửa quá không thê nhớ hết, đếm hết), đến điếm “Hậu mà quân túc trực”, tiếp tục “đến một cái cửa lớn” “qua dãy hành lang phía tây đến một cái nhà lớn thật cao và rộng”, lại “qua một cửa nữa, đến một cái lầu cao và rộng”,… Theo bước chân Quan Chánh đường ta tưởng như tác giả đang đi vào một mê cung chứ đâu phải nơi người ở. Chúng còn kiểu cách đến mức đặt tên cho mỗi nơi, mỗi chốn: nhà “Đại đường”, nhà “Quyển bồng”, “Gác tía”, riêng vì kiêng chữ “thuốc” nên Gác tía còn được gọi là “phòng trà”. Đi qua những nơi ấy nhưng vẫn chưa được gặp được người cần gặp. Phủ chúa cao rộng sâu và xa quá, có lè vì vậy mà tiếng khóc muôn dân không vang tới, nó chặn kín con đường họ Trịnh về với cái Nhân, cái Thiện của con người. Đến “phòng trà” mới biết còn “bảy, tám người” ngự y cũng đang túc trực. Vậy mới biết, cách sinh hoạt của phủ chúa cầu kì, rườm rà, câu nệ vô cùng. Chỉ vì một người mà làm khổ đến bao người. Từ một ông thầy thuốc “quèn” phải dậy từ tinh mơ, “chịu xóc một mẻ, khổ không nói hết”, phải đi bộ qua quãng đường lê thê những lính canh, lính kiểm đến những ngự y phải túc trực hàng ngày, hao tốn thì giờ nơi đây. Trong khi ấy dân gian vẫn rên xiết, khổ đau. Chưa hết, vượt một quãng đường khó khăn, dài dặc như vậy đến, chỉ vì quanh thế tử khi ấy có “Thánh thượng” cùng các phi tần đang ở xung quanh, họ lại phải quay trở lại điếm Hậu mã! Việc ăn uống nơi này xa hoa vô cùng “mâm vàng chén bạc, đồ ăn toàn của ngon vật lạ”. Thật cơm nhà giàu đổ cho chó để chốn dân gian người chết đói vô cùng!
Sau bao nhiêu chờ đợi, cuối cùng người đọc cũng được tiếp kiến mặt rồng.
Bên ngoài khung cảnh xinh đẹp rộn rã là thế nhưng nơi vua nằm chúa ở lại “tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả”. Không gian ấy giống như một cái hang, ẩn chứa nhiều khuất tất, lạ lùng. Thứ ánh sáng duy nhất tác giả thấy được là ánh sáng của nến sáp, từ đây ánh mặt trời không chiếu tới. Điều đó hàm một ý rất tinh: Mặt trời mang sự sống cho muôn loài nhưng rõ ràng kẻ trong này không được thần Dương ban ánh sáng, không được ban phúc lành, tất sẽ ốm đau bệnh hoạn. Điều đó được chứng minh ngay bởi dáng vẻ thân hình của thế tử “ở trong chốn màn che trướng phủ, ăn quá no mặc quá ấm nên tạng phủ yếu đi (…) tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò”. Tình cảnh ấy thật thảm thương. Đứa trẻ thiếu ăn thiếu mặc gầy gò ốm yếu đã đành, nay chỉ vì dư ăn dư mặc mà ốm yếu thì thật mỉa mai đau xót. Nhìn con người ấy mặc thế tử ấy hỏi sao đảm đương được việc triều chính, gánh sao cho được sơn hà? Lối sinh hoạt nơi phủ chúa xa hoa, nghi thức mà ám muội, bệnh hoạn quá mức.
Qua miêu tả đời sống nơi phủ chúa, Lè Hữu Trác hàm một ý phê phán nhẹ nhàng lối sống xa hoa, cầu kì nơi phủ chúa. Đặt đoạn trích nói riêng và tác phẩm nói chung vào hoàn cảnh lịch sử ta mới thấy hết giá trị hiện thực của ngòi bút Hải Thượng Lãn Ông. Tác phẩm đã tố cáo sự ích kỉ, chuyên quyền của phủ chúa, đời sống nơi này chính là nguyên nhân gây nên mọi tai vạ đau thương cho đất nước.
Lê Hữu Trác bằng Thượng kinh ki sự đà chứng minh bản thân ông không chỉ là một người thầy thuốc có tài mà còn là một ngòi bút có tâm, có tấm lòng nhân ái, vì dân mà trách kẻ có tội. Thượng kinh kí sự đã ghi danh thêm tên tuổi một văn nhân có tài vào lịch sử văn học nước nhà.
Bài mẫu 2: Nghị luận văn học - Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
Bài làm
“Con ơi nhớ lấy câu này
Cướp đêm là giặc, cướp ngày là quan”.
Bọn vua chúa phong kiến đa số là những tên cướp ngày. Chúng cướp của nhân dân một cách công khai bằng đủ thủ đoạn tàn ác để vinh thân phì gia, để hưởng thụ cuộc sống. Lên Hữu Trác, một danh y lỗi lạc, một văn nhân tài ba của nước ta ở thế kỉ XVIII đã một phần nào nói lên được thực trạng này qua tác phẩm Thượng kinh kí sự. Trong kí sự này, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh có một giá trị hiện thực sâu sắc khi phản ánh được cuộc sống xa hoa, giàu sang, quyền uy tột bậc của nhà chúa.
Thế nào là giá trị hiện thực? đây là cách viết văn mô tả cuộc sống thực của một nhân vật hoặc một tầng lớp xã hội. Cách viết này có giá trị giúp người đọc thấy hiện ra trước mắt mình hình ảnh về cuộc sống trong một giai đoạn lịch sử, từ đó gợi lên những cảm nghĩ để có những nhận xét, đánh giá nhất định. Giá trị hiện thực của đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh là đã vẽ ra một bức tranh sinh động về cuộc sống quá xa hoa, quyền quý đến mức một người từng sống ở kinh thành như Lên Hữu Trác đã không ít lần phải sửng sốt, ngạc nhiên. Nó còn dựng lên trước mắt người đọc chân tường của một tầng lớp thống trị ốm yếu, thiếu sinh khí, sống sau những lớp mà che tăm tối, xa cách hẳn với cuộc sống lành mạnh, tự nhiên. Nhất là nó cho chúng ta nhận ra diện mạo của một chế độ xã hội phi lí, đáng bị đào thải. Để phản ánh chân thực hiện thực, tác giả đã dùng để kí sự. Kí là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn nghành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh.
Trước hết chúng ta tìm hiểu hoàn cảnh tác giả vào Trịnh phủ. Tác giả ghi chép lại những điều ông mắt thấy tai nghe trong một chuyến đi từ Hương Sơn (Hà Tĩnh), nơi ông sống ẩn dật, đến kinh đô Thăng Long, vào phủ Chúa theo “thánh chỉ” để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Tác giả cho ta thấy quang cảnh ở kinh đô, quyền uy thế lực của nhà chúa và cuộc sống xa hoa trong phủ chúa Trịnh, những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút. Năm 1783 ông viết xong tập Thượng kinh kí sự bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc, có giá trị hiện thực cao.
Đầu tiên giá trị hiện thực được thể hiện qua nét vẽ của một bức tranh sinh động về cuộc sống quá xa hoa, quyền quý của vua quan ở phủ chúa. Theo chân tác giả, người đọc như tận mắt trong thấy quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ - không ở đâu sánh bằng. Muốn vào phủ, ta phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh giác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, anh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được sơn son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ … Đến nội cung của thế tử phải trải qua sáu lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng, có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm, xung quanh lấp lánh, mùi thơm ngào ngạt … Trước cảnh tưởng xa hoa này, Lê Hữu Trác đã phải cảm tác:
“Lầu từng gác vẽ tung mây,
Rèm châu, hiên ngọc, bóng mai ánh vào
Hoa cung thoảng ngạt ngào đưa tới
Vườn ngự nghe vẹt nói đòi phen”.
Và còn hơn thế nữa! tác giả vốn con quan, sinh trưởng ở chốn phồn hoa, chỗ nào trong cấm thành cũng từng biết. Duy chỉ có những việc trong phủ chúa là chưa biết đến … nay mới hay cái cảnh giàu sang của phủ chúa thực khác hẳn người thường, không thể tượng tượng nổi, đến nỗi làm cho ai cũng phải sửng sốt, ngạc nhiên:
“Cả trời Nam sang nhất là đây!”
Hoặc
“Quê mùa, cung cấm chưa quen,
Khác gì ngư phủ đào nguyên thuở nào!”
Tiếp theo, giá trị hiện thực còn được thể hiện qua việc tác giả dựng lên trước mắt người đọc chân tướng của một tầng lớp thống trị ốm yếu, thiếu sinh khí, sống sau những lớp màn che tăm tối, xa cách hẳn với cuộc sống lành mạnh, tự nhiên của người dân. Đó là hình ảnh của thế tử Trịnh Cán. Nơi ở của thế tử thật khác thường: phải trả qua năm sáu lần trướng gấm làm cho nơi ở tối om, ngột ngạt và thiếu sinh khí. Người ta vì đói ăn thiếu mặc mới bệnh hoạn, ốm yếu đã đành, đây lại vì “ăn quá no, mặc quá ấm”, dư thừa về vật chất, vậy mà “tinh khí khô hết, da mặt khô, rốn lồi to, gân thời xanh, tay chân gầy gò vì nguyên khí đã hao mòn, thương tổn quá mức”. Xem tờ khải của Lê Hữu Trác, người đọc càng thấy rõ hơn thực tế này: “chầu mạch, thấy sáu mạch tế sác và vô lực, hữu quan yếu, hữu xích lại càng yếu hơn. Ấy là tì âm hư, vị hỏa quá thịnh, không giữ được dương khí, nên âm hỏa đi càn. Vì vậy, bên ngoài thấy cổ trướng, đó là tượng trưng ngoài thì phù, bên trong thì trống”. Như thế tác giả đã giúp cho người đọc hiểu rõ căn nguyên cơ thể ốm yếu, héo hon, gầy mòn của thế tử chính là kết quả của lối sống xa hoa, giàu sang mà thiếu sinh khí trời lành mạnh, tự nhiên. Cách sống và nơi sinh hoạt của phủ chúa càng làm nổi bật giá trị hiện thực của tác phẩm.
Càng thấy được, hiểu được lối sống xa hoa quyền quý ở phủ chúa Trịnh, chúng ta càng dâng lên lòng căm giận bọn vua quan này vì đoạn trích đã giúp chúng ta nhận ra diện mạo của một chế độ xã hội phi lí, đang bị đào thải. Ngay nhà văn Phạm Đình Hổ trong Vũ trung tùy bút cũng đã có những phản ánh tương tự: “Trong phủ, tùy chỗ, điểm xuyết bày vẽ ra hình núi non bộ trong như bến bể đầu non. Mỗi khi đêm thanh cảnh vắng, tiếng chim kêu vượn hú tràn khắp bốn bể, hoặc nửa đêm ồn ào như trận mưa sa …”. Vậy cuộc sống xa hoa này do đâu mà có? Chắc chắn là do chúng vơ vét của cải nhân dân, gây ra biết bao nhiêu tội ác với nhân dân lao động, đẩy họ vào con đường tối tăm cùng cực… Nguyên do này cũng được nhà văn Phạm Đình Hổ xác nhận như sau: “Buổi ấy, bao nhiêu những loài trân cầm dị thú, cổ mộc quái thạch, chậu hoa cây cảnh ở chốn dân gian, chúa đều sức thu lấy, không thiếu một thứ gì”. Những cuộc đời vẫn có những quy luật của nó. Đó là “nhân nào quả nấy”, đólà “cùng tắc biến”. Chính vì thế mà qua hình dáng và bệnh tình của Đông cung Thế tử, người đọc có thể liên tưởng đến tình trạng suy thoái của truyền đình phong kiến Việt Nam vào thời đó. Chế độ phong kiến tồn tại hàng ngàn năm đã già cỗi, lạc hậu, khó bền cứu chữa và đến ngày diệt vong. Cuộc Bắc phạt của Bắc bình vương Nguyễn huệ đã chấm dứt một thời vàng son của chúa Trịnh.
Tóm lại, đoạn trích Vào phủ chúa Trịnh mang giá trị hiện thực sâu sắc. Bằng tài quan sát tinh tế, tỉ mỉ bẳng ngòi bút ghi chép chi tiết, chân thực và tài tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo, tác giả đã vẻ lại một bức tranh sinh động, thuật việc khéo léo, tác giả đã vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Chính vì thế mà tác phẩm Thượng kinh kí sự của Lê Hữu Trác xứng đáng là viên ngọc quý của nền văn học trung đại Việt Nam.
Bài mẫu 3: Nghị luận văn học - Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
Bài làm
Hải Thượng Lãng Ông Lê Hữu Trác không chỉ được biết đến là một người có y đức cũng như tài năng thì ông còn là một người có tài năng viết những tác phẩm văn học. Mặc dù viết không nhiều nhưng mỗi tác phẩm ông viết ra đều có giá trị to lớn về mặt văn học sử “Vào phủ chúa Trịnh” là một trong tác phẩm như vậy.
Trước hết người đọc như thấy được “Vào phủ chúa Trịnh” đã như được xảy ra trong hoàn cảnh triều đình đó là chúa Trịnh Sâm vời Lê Hữu Trác khi được vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán. Mặc dù rằng chính bản thân không muốn những ông vẫn phải vào theo lệnh chúa. Và dường như ta như thấy được chính những hiện thực nơi đây dường như cũng đã được nhìn qua con mắt của ông khiến cho chúng ta thấy được cuộc sống nơi phủ chúa như thế nào.
Dễ dàng nhận thấy được hiện thực phủ chúa đã được chính tác giả miêu tả theo quang cảnh của phủ chúa. Việc miêu tả từ ngoài vào trong, và không những thế còn chính là những cách thức trong cung nữa. Và người đọc ở đây như đã thất mọi thứ nơi đây hiện lên thật sự rất cụ thể và chi tiết cả về thời gian và không gian.
Trước hết, đó còn là quang cảnh nơi đây, tác giả như đã bước chân vào phủ chúa tác giả đã như không thể nào mà có thể hết khen ngợi bởi sự xa hoa sang trọng nơi đây. Đó chính là những cây cối quý và hiếm hiểu theo đúng nghĩa vì các loại cây đó mà chính tác giả cũng chưa thấy ở đâu. Có lẽ rằng những cây cối ấy toàn những của quý, cây quý cả. Quý như thế mà trong phủ chúa lại có rất nhiều rất um tùm nữa. Phủ chúa thật là sang trọng biết bao, những cây cối quý hiếm, hay cả những loại chim lạ và đẹp mắt. Cả phủ chúa cứ như chốn bồng lai vậy.
Không những thế mà khi tác giả càng đi sâu vào trong phủ thì Lê hữu Trác càng như đã thật ngạc nhiên như vẽ lên khung cảnh chúa với sự xa hoa mỹ lệ. Tác giả thấy nhưng ở ông lại không hám muốn danh lợi. Và đặc biệt ông cũng thể hiện thái độ rằng không thích một cuố sông mà ở đó mọi thứ đều quá tiện nghi, và hay là chính tiện nghi mà con người lại dễ sinh bệnh? Và dường như những khung cảnh phủ chúa như lại được tiếp tục thể hiện qua những đại đường, và cả quyền bổng. Ở đây, ta như thấy được những màu vàng chói lọi. Từ trước cho đến nay thì màu vàng thể hiện sự giàu sang phú quý và có lẽ rằng cúng chính vì thế mà trong phủ chúa những vật từ nhỏ cho đến lớn đều được sơn son thiếp vàng. Cuộc sống vua chúa nơi đây quả thật chẳng khác nào thiên đường mà nhiều người muốn. Từ những cây cột ở đại đường đều được sơn thếp sơn vàng. Hay là những đũa chén, mâm ăn cơm, những vật dụng tưởng chừng nhỏ bé bình thường ấy cũng được mạ vàng. Nếu như có những mâm vàng chén bạc quý giá thì người ta chỉ để làm vật quý giá trưng bày mà thôi thế mà ở đây là một vật dụng để ăn cơm. Có được một thứ mạ vàng hay bằng vàng là một sự quý giá lắm rồi thế mà ở đây từ vật to đến vật lớn đều là vàng cả. Cuộc sống hiện lên thật sự đầy đủ và giàu sang.
Không những thế cung cách trong cung cũng phần nào thể hiện được giá trị hiện thực của tác phẩm này. Để vào được trong cung thì phải qua nhiều lần bẩm báo trong phủ thì mới được vào. Những thứ của chúa thì gọi là thánh giống như là nhà vua vậy. Lê Hữu Trác vào cung vì có thánh chỉ cũng cần phải qua nhiều cửa mới đến nơi. Mọi người ở đây cung kính với chúa. Riêng bản thân chúa Trịnh Sâm thì có biết bao nhiêu là cung tần mĩ nữ vây quanh mình để chờ được hầu hạ ngài. Có thể nói cuộc sống ấy đúng là cách sống của những bậc vua chúa. Tuy nhiên sống như thế thì lấy tiền ở đâu ra?.
Không những thế khi vào khám bệnh cho thái tử Trịnh Cán thì dù chỉ mà một đứa trẻ trong cung vậy thôi nhưng những người ngự y dù đã rất già cũng phải vái lạy thái tử rồi mới được bắt mạch kê đơn. Căn phòng ấy cũng khá lộng lẫy, thái tử thì ở sau những bức chướng gấm quý giá như để che chở lấy tấm thân gọi là ngọc ngà kia. Những ngự y túc trực quanh đó và cuối cùng Lê hữu Trác đã tìm ra phương thuốc để chữa bệnh cho Trịnh Cán.
Trước những sự phản đối của đa số những thầy thuốc trong cung Lê Hữu Trác vẫn thể hiện sự uyên thâm của bản thân mình khiến cho những ngự y kia phải khâm phục.
Qua đây ta thấy rõ ràng cuộc sống ăn chơi xa hoa nơi phủ chúa. Trả lời cho câu hỏi vậy những cây cối um tùm danh hoa đua thắm kia là ở đâu ra?, tiền đâu mà có thể có cuộc sống ăn chơi như thế?. Có thể khẳng định tiền chính là những cống nộp của nhân dân. Trong tình hình đất nước chia làm hai như thế những chúa Trịnh không lo cuộc sống cho dân, trị được nước và đi vào lòng dân chúng mà ở đây chúa lại có cuộc sống chỉ biết ăn chơi hưởng lạc. Qua đây ta thấy được hiện thực đất nước ta trong những năm ấy, trong khi nhân dân sống một cách khổ cực thì chúa lại có một cuộc sống không ai sánh bằng.
Như vậy qua đoạn trích vào phủ chúa Trịnh của Lê Hữu Trác chúng ta thấy tác phẩm này thấm nhuần giá trị hiện thực của xã hội Việt nam những năm ấy. Cuộc sống vua chúa ăn chơi, xa đọa hưởng lạc thú mà quên đi nhiệm vụ trị an đất nước của mình.
Bài mẫu 4: Nghị luận văn học - Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
Bài làm
Lê Hữu Trác xuất thân trong một gia đình qúy tộc, giỏi binh thư, võ nghệ. Làm quan dưới thời chúa Trịnh được một thời gian, ông nhận thấy xã hội thối nát, cương thường lỏng lẻo, nhân khi người anh ở Hương Sơn mất (1746), ông liền viện cớ cáo quan về nuôi mẹ già. Từ đó ông chuyên nghiên cứu y học vừa chữa bệnh cứu đời, vừa soạn sách và mở trường dạy học truyền bá y đức, y lí, y thuật.
Ngày 12 tháng giêng năm Cảnh Hưng 43(1782), Lê Hữu Trác nhận được lệnh chúa triệu về kinh xem mạch, kê đơn chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán. Sau đó một thời gian thì chữa bệnh cho chúa Trịnh Sâm. Những điều Lê Hữu Trác mắt thấy tai nghe trong nhiều chuyến đi từ Hương Sơn ra Thăng Long đã thôi thúc ông cầm bút.
Năm 1783 ông viết xong tập “Thượng kinh kí sự” bằng chữ Hán. Tập kí sự này là một tác phẩm văn học đích thực, đặc sắc, có giá trị sử liệu cao. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” đã thể hiện được đầy đủ những nét độc độc đáo trong bút pháp kí sự của Lê Hữu Trác.
Như ta biết: Kí là là tên gọi chung cho một nhóm thể loại có tính giao thoa giữa báo chí với văn học. Kí viết về cuộc đời thực tại, viết về người thật, việc thật. Người viết kí miêu tả thực tại theo tinh thần của sử học. Mẫu hình tác giả kí gần gũi với nhà sử học. Tác giả kí coi trọng việc thuật lại có ngọn ngành và không bao giờ quên miêu tả khung cảnh. Kí bao gồm nhiều thể văn như: Bút ký, phóng sự, du kí, hồi kí,nhật kí,… Trong số đó kí tự thiên về ghi chép chi tiết, tỉ mỉ sự việc câu chuyện có thật. Tất nhiên đan xen vào mạch tự sự còn có những đoạn thể hiện nhận xét chân thực, tinh tường của nhà văn trước sự việc.
Đoạn trích “ Vào phủ chúa Trịnh” vẽ lại một bức tranh sinh động về cuộc sống xa hoa quyền quý của chúa Trịnh. Lê Hữu Trác sử dụng người trần thuật ngôi thứ nhất, trực tiếp tiếp cận cung cách sinh hoạt xa hoa của chúa Trịnh. Nhà văn quan sát tỉ mỉ, ghi chép trung thực, tả cảnh sinh động, thuật việc khéo léo.
Mở đầu đoạn trích là một sự kiện cụ thể, chân thực. Tính chất kí trong bút pháp của Lê Hữu Trác thể hiện rõ ở cách ghi tỉ mỉ sự việc, thời gian. Nhà văn kết hợp biện pháp kể khách quan với nghệ thuật gợi không khí nhằm làm nổi bật hành động khẩn trương, gấp gáp của nhân vật: “Mồng một tháng 2. Sáng tinh mơ, tôi nghe tiếng gõ cửa rất gấp. Tôi chạy ra mở cửa . Thì ra một người đầy tớ quan Chánh đường….” . Ở đây “trong việc có người”, người gắn chặt với cảnh, với môi trường hoạt động cụ thể. Câu văn của Lê Hữu Trác ngắn gọn, giàu thông tin, được viết ra một cách nhẹ nhàng, tự nhiên,không một chi tiết thừa. Lời văn giản dị, chắc mà bay bổng, vừa “truyền cảm” vừa truyền nhận thức. Người đọc có thể hình dung được rất rõ một cảnh huống đặc biệt đang xảy ra.
Lần theo mạch tự sự, người đọc có cảm giác hồi hộp lo âu rồi bất ngờ nhận ra một con người gần gũi, quen thuộc như cảm nhận của nhân vật “ Tôi” trong tác phẩm này. Trước mắt ta: Hình ảnh nhân vật tôi đã dừng bước với tâm trạng ngạc nhiên, thoáng một chút thất vọng. Nhịp kể đột ngột chậm lại để ghi người, ghi việc rõ nét hơn, đầy đủ hơn. Hai chữ “thì ra” vừa tạo ấn tượng về sự khám phá, vừa gọi ra được người thật,việc thật.
Nhân vật “tôi” không hiện ra qua hình dáng cụ thể. Trước hết anh ta xuất hiện qua giọng nói, qua cảm nhận về âm thanh, và rõ hơn ở hành động. Nhân vật “tôi”” xuất hiện với tư cách một người trong cuộc, trực tiếp tham gia vào sự việc được miêu tả trần thuật. Vì thế ngay từ đầu truyện người đọc đã có cảm giác đây không phải câu chuyện hư cấu, mà chính là bức tranh cuộc sống đang hiện hữu.
Khi kể việc, tả người Lê Hữu Trác không vay mượn những khuôn mẫu, chất liệu có sẵn, tác giả hướng tới khai thác chất liệu đời thường, đời tư. Chẳng hạn lời đối thoại của nhân vật người đầy tớ được thể hiện một cách tự nhiên, đúng với vị thế chức phận của hắn: “có thánh chỉ triệu cụ vào. Quan truyền mệnh hiện đang ở nhà cụ lớn con, con vâng mệnh chạy đến đây báo tin…”.
Lê Hữu Trác coi trọng việc kể lại có ngọn ngành. Nhà văn ưa sắp xếp sự việc cho đầy đủ mạch lạc có đầu có cuối, nên dường như cứ một đoạn hay một câu nói về hành động của tên đầy tớ lại tiếp đoạn tự thuật về hành động, cảm nhận của Lê Hữu Trác. “Nghe tiếng gõ cửa…tôi chạy ra…” , “người đầy tớ nói…tôi bèn” , “tên đầy tớ chạy…tôi bị xóc một mẻ, khổ không nói hết”. Mạch văn chặt chẽ nhờ sự thể hiện thành công cái lôgíc nhân quả của sự kiện, hành động. Ban đầu ta tưởng như nhân vật “tôi” chủ động, nhưng càng đọc càng thấy nhân vật “tôi” bị cuốn vào hết sự việc này đến sự việc khác.
Mở đầu đoạn trích cấu trúc câu văn ngắn gọn. Mỗi câu văn tương ứng với một tâm tình, một sự việc, hành động. Người đọc vừa đồng cảm với nỗi vất vả và hành động bất đắc dĩ của nhân vật tôi vừa đồng tình với Lê Hữu Trác ở thái độ mỉa mai châm biếm sự lộng quyền, tiếm lễ của chúa Trịnh Sâm lúc bấy giờ.
Quang cảnh và cung cách sinh hoạt trong phủ chúa được ghi lại khá tỉ mỉ qua con mắt quan sát của một thầy thuốc lần đầu tiên bước chân vào thế giới mới lạ. Không gian nghệ thuật của tác phẩm ngày càng được mở rộng hơn theo bước chân, và cách nhìn của nhân vật xưng “tôi”. Bức tranh toàn cảnh về phủ chúa Trịnh không chỉ có bề rộng mà còn có chiều sâu, với một sức gợi mạnh mẽ.
Theo nhân vật “tôi” quanh cảnh ở phủ chúa cực kì xa hoa, tráng lệ không ở đâu sánh bằng: Khi vào phủ phải qua nhiều lần cửa với những hành lang quanh co nối tiếp nhau, ở mỗi cửa đều có vệ sĩ canh gác. Khuôn viên phủ chúa rộng, có trạm dừng chân được kiến trúc thật kiểu cách, với cảnh trí thiên nhiên kì lạ. Trong vườn, chim kêu ríu rít, danh hoa đua thắm, gió đưa thoang thoảng mùi hương. Bên trong là những Đại đường, gác tía với kiệu son, võng điều. Đồ dùng của chúa được son son thiếp vàng, đồ dùng tiếp khách ăn uống cũng đều là mâm vàng, chén bạc, của ngon vật lạ… Đến nội cung của thế tử phải trải qua 6 lần trướng gấm. Nơi ở của thế tử rất sang trọng,có sập thếp vàng, ghế rồng bày nệm ấm ,xung quanh lấp lánh, hương hoa ngào ngạt…
Lê Hữu Trác khéo kết hợp tả tập trung với điểm xuyết, chọn lọc được những chi tiết đắt, nói lên quyền uy tối thượng cùng nếp sống hưởng thụ cực kì xa xỉ của gia đình chúa Trịnh Sâm. Giọng kể khách quan, trang nghiêm, đan xen với thái độ ngạc nhiên và hàm ý phê phán kín đáo chúa Trịnh .Nhà văn khéo kết hợp giữa văn xuôi và thơ ca. Bài thơ vịnh cảnh, tả việc của Lê Hữu Trác ý tứ sâu xa, lời thơ hóm hỉnh, ẩn giấu một nụ cười châm biếm, mỉa mai.
Lời nhận xét trong văn phẩm khá đa dạng: Trước tiên Lê Hữu Trác đánh giá khái quát vẻ đẹp. Tiếp theo nhận xét về cảnh giàu sang. Tiếp nữa nêu ấn tượng về cách bày trí, kiến trúc kiểu cách. Nhà văn dừng lại bình giá tỉ mỉ,sắc sảo các đồ dùng xa hoa từ nhà Đại đường đến Gác tía. Lời đánh giá nào của lê Hữu Trác cũng đích đáng,tinh tế và có chừng mực. Nói tác phẩm giàu chất trữ tình vì thế.
Tác giả quan sát các công trình kiến trúc, cảnh trí thiên nhiên qua hình khối, dáng vẻ kích cỡ, tả khuôn viên chủ yếu qua những ấn tượng về hương thơm âm thanh, kể về mức độ xuất hiện của thị vệ, quân sĩ để nhấn mạnh vẻ trang nghiêm của nơi đây. Lê Hữu Trác đặc biệt ưa tả đường đi, lối vào phủ chúa. Ta có cảm tưởng đằng sau mỗi cánh cửa là một bức tranh. Đoạn trích gồm nhiều bức tranh với những mảnh màu tối sáng, nhạt đậm khác nhau, nối liền nhau .
Qua mấy lần cửa đầu tiên, trước mắt tác giả giống như một cảnh tiên huyền ảo, cây cối um tùm, hương hoa thơ mộng. Đi tiếp, cảnh giàu sang của phủ chúa được bày ra chân thật, đầy đủ hơn. Càng đi sâu vào trong, Lê Hữu Trác càng có dịp quan sát không gian nội thất, không gian cao rộng của lầu gác với các đồ nghi trượng sơn son thếp vàng, nhất là được biết cái phong vị của nhà đại gia.
“Vào phủ chúa Trịnh” trở thành một quá trình tiếp cận sự thật đời sống xa hoa vương giả hơn là thăm bệnh, chữa bệnh. Thăm bệnh, chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán tưởng chỉ như một cái cớ, một dịp may giúp người viết kí hoàn thiện bức tranh về cuộc sống thâm nghiêm, giàu sang đầy uy quyền.
Lê Hữu Trác tổ chức điểm nhìn trần thuật linh hoạt. Có đoạn sự việc được kể theo quan sát của nhân vật xưng tôi. Có đoạn nhà văn để cho nhân vật quan truyền chỉ miêu tả, giới thiệu. Người đọc có cảm tưởng không chỉ có Lê Hữu Trác dẫn ta vào phủ chúa để tự do quan sát ngắm nhìn mà cả những kẻ hầu cận chúa cũng đưa ta thâm nhập, khám phá sự thật ở “Đông cung”. Những đoạn nhân vật tôi độc thoại toát lên cái nhìn sắc sảo và sự cảm nhận tinh tế. Những đoạn kể tả, cho thấy nhân vật tôi bao quát được một không gian rộng lớn, nắm bắt được thần thái, bản chất của sự vật hiện tượng.
Trong tư cách một người thầy thuốc quê mùa, nhân vật tôi luôn tỏ ra là một người hoà nhã kính nhường, ham học hỏi y thuật của đồng nghiệp. Sự đối lập về vị thế so với các vị lương y của sáu cung hai viện, không khiến nhân vật tôi trở nên nhỏ bé, trái lại càng tôn cao hơn nhân cách và tài năng của nhân vật này. Vẻ đông đúc của lương y nơi triều đình tự phơi bày hết sự thực ở phú chúa đang tồn tại một hệ thống quan lại bất tài, ăn bám .
Các nhà nho xưa ít khi nói về mình. Nhưng trong đoạn trích này, tác giả đã không ngần ngại để cái “Tôi” đóng một vai trò quan trọng. “Vào phủ chúa Trịnh” thể hiện trực tiếp cái tôi cá nhân người cầm bút. Qua đoạn trích ta thấy tác giả Lê Hữu Trác là một thầy thuốc giàu kinh nghiệm. Bên cạnh tài năng ông còn là một thầy thuốc có lương tâm và đức độ. Lê Hữu Trác xem nghề thuốc vô cùng thiêng liêng cao quí, người làm thuốc phải nối tiếp lòng trung của cha ông mình,phải luôn giữ đức cho trong, giữ lòng cho sạch . Lê Hữu Trác yêu thích tự do, nếp sống thanh đạm. Vượt lên trên những danh lợi tầm thường ông trở về hành đạo cứu đời với quan niệm: “Thiện tâm cốt ở cứu người. Sơ tâm nào có mưu cầu chi đâu/Biết vui, nghèo cũng hơn giàu/Làm ơn nào phải mong cầu trả ơn”.
Bài mẫu 5: Nghị luận văn học - Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
Bài làm
“Công danh trước mắt trôi như nước
Nhân nghĩa trong lòng chẳng đổi phương”
Hai câu thơ đó là tâm niệm một đời của một thầy thuốc nổi tiếng vì tài năng và đức độ – Hải Thượng Lãn Ông. Suốt cuộc đời của mình, Hải Thượng Lãn Ông đã luôn sống và hành nghề y theo tâm niệm đó, để không bao giờ bị trói buộc bở danh lợi tầm thường. Sự nghiệp của ông được lưu giữ trong bộ “Hải Thượng y tông tâm lĩnh”. Đặc biệt, phần phụ lục “Thượng kinh kí sự” của tác phẩm không chỉ có giá trị y học mà còn có giá trị về mặt văn học. Một trong những giá trị đó là giá trị về mặt hiện thực. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” rất tiêu biểu cho giá trị hiện thực đó của tác phẩm.
“Thượng kinh kí sự” được viết theo thể kí – thể loại nhằm ghi chép những sự việc, câu chuyện có thật tương đối hoàn chỉnh. Đoạn trích “Vào phủ chúa Trịnh” kể lại việc Lê Hữu Trác được cho vời gấp vào cung để chữa bệnh cho thế tử Trịnh Cán – con trai của chúa Trịnh Sâm. Chính ở đây, Lê Hữu Trác đã có dịp quan sát và miêu tả lại chân thực quang cảnh ở kinh đô cũng như cung cách sinh hoạt đầy xa hoa trong phủ Chúa.
Giá trị hiện thực của tác phẩm trước hết được thể hiện qua những chi tiết chân thực, sinh động về cuộc sống trong phủ chúa. Đường vào phủ chúa được bài trí cầu kì, hoa lệ với mấy lần cửa, một vườn hoa với nhiều kì trân dị thảo, tiếng chim hót ríu rít, cùng với một dãy hành lang quanh co. Phủ chúa còn là một nơi uy nghiêm với các điếm Hậu mã luôn túc trực, qua cửa luôn phải trình báo mới được vào. Cửa ra vào luôn rộn ràng kẻ ra người vào với những viên nội giám giữ cửa và thông truyền, càng nhộn nhịp bởi những kẻ có việc quan đông như mắc cửi. Tất cả đồ dùng bên trong đều bằng sơn son thếp vàng. Trong xã hội phong kiến xưa, chỉ có bậc đế vương mới được quyền dùng màu vàng tươi để biểu hiện quyền lực tột đỉnh của mình. Chi tiết này đã phản ánh sự thật lịch sử: Quyền lực thực tế giờ đã rơi vào tay chúa Trịnh, vua Lê chỉ còn là vua bù nhìn không hơn không kém. Quang cảnh bên trong nội cung với những màn là, trướng gấm, sập vàng, ghế rồng, hương trầm ngào ngạt lan tỏa là đỉnh cao của sự xa hoa tột bậc. Chỉ bằng một vài chi tiết miêu tả, Lê Hữu Trác đã giúp người đọc hình dung ra một quang cảnh tột đỉnh xa hoa với những cách bài trí cầu kì, mĩ lệ.
Sinh hoạt trong phủ chúa cũng hiện lên với những chi tiết đắt giá. Thế tử Cán vốn là một cậu bé khoảng năm, sáu tuổi nhưng đã có đến bảy tám thầy thuốc hầu bệnh, xung quanh lúc nào cũng có người hầu phục dịch. Nơi ở của thế tử được miêu tả là một chốn “tối om, không thấy có cửa ngõ gì cả” và phải đi qua độ “năm, sáu lần trướng gấm”. Chỉ một chi tiết nhỏ, Lê Hữu Trác đã giúp người đọc hình dung ra nơi ở của thế tử: tuy xa hoa nhưng lại thiếu sinh khí, không được tiếp xúc với ánh nắng mặt trời. Thế tử ngồi trên sập vàng để chờ người thầy thuốc già Lê Hữu Trác quỳ lạy bốn lạy, thăm mạch xong lại phải quỳ lạy bốn lạy nữa mới được lui ra. Khi thầy thuốc lạy xong, thế tử còn khen ngợi: “Ông này lạy khéo”. Một chi tiết tuy nhỏ nhưng cho thấy tài quan sát của Lê Hữu Trác: chỉ là một đứa trẻ nhưng thế tử Cán đã có dáng vẻ của con cháu đế vương với thân phận tôn quý, chỉ chờ người khác hành lễ với mình. Chi tiết đã lột tả được uy quyền tối thượng của nhà chúa và thân phận bé nhỏ, hèn mọn của người thầy thuốc. Lê Hữu Trác tuy vào cung nhưng cũng không được thấy mặt rồng, tất cả mọi việc làm đều phải thông qua quan Chánh đường và xin mệnh lệnh của các viên nội quan mới được tiến hành. Tất cả đều khắc họa chân thực một chốn cung đình với những lễ nghi, quy tắc thật gò bó, rườm rà, không hề có một chút thoải mái, tự do.
Đối với những quang cảnh và cung cách sinh hoạt nơi phủ chúa, Lê Hữu Trác chỉ quan sát mọi cảnh vật, ngõ ngách để ghi lại những ghi chép chân thực, chi tiết nhất mà ít trực tiếp bày tỏ thái độ của mình. Qua những quang cảnh cùng sinh hoạt đó, tác giả ngầm bày tỏ thái độ với cuộc sống trong phủ chúa: ông cảm thấy đây là “quang cảnh khác hẳn người thường”, chẳng khác gì “ngư phủ đào nguyên thuở nào”. Món ăn trong phủ chúa cũng toàn những của ngon vật lạ hiếm thấy, đồ đựng thức ăn toàn những mâm vàng chén bạc cho thấy mức độ xa xỉ quá mức, khác hẳn với cảnh sống lầm than của dân chúng. Lê Hữu Trác cho rằng căn bệnh của thế tử bắt nguồn từ cuộc sống “trong màn che, trướng phủ, ăn quá no, mặc quá ấm” nên thân thể bị suy yếu đi. Tác giả bộc lộ rõ thái độ không đồng tình với một cuộc sống xa hoa, sung sướng tột bậc song lại không có tự do, thoải mái, không có chút sinh khí nào để con người được “sống” thực sự.
Như vậy, giá trị hiện thực sâu sắc của “Vào phủ chúa Trịnh” được tạo nên bởi những chi tiết được ghi chép chân thực, tỉ mỉ song lại có sức mạnh tố cáo, phê phán sâu sắc cuộc sống xa hoa, vương giả, đối lập với cuộc sống lầm than khổ cực của nhân dân khi triều đình phong kiến đã mục ruỗng. Tài năng của Lê Hữu Trác – vị danh y đồng thời là nhà văn, nhà thơ lớn đã được chứng minh qua đoạn trích này.
Xem thêm bài viết khác
- Phân tích ý nghĩa nhan đề Hạnh phúc của một tang gia Ý nghĩa nhan đề Hạnh phúc của một tang gia
- Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Văn mẫu 11: Tổng hợp những bài viết số 6 hay nhất (3 đề)
- Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia Cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia
- Đề 3: Viết bài nghị luận bày tỏ ý kiến của mình về phương châm Học đi đôi với hành.
- Nghị luận: Bàn về lợi ích và hứng thú của việc tự học bài mẫu 3
- Văn mẫu: Tổng hợp bài viết số 1 ngữ văn 11 (3 đề)
- Đọc truyện Tấm Cám, anh (chị) suy nghĩ về cuộc đấu tranh giữa cái thiện và cái ác, giữa người tốt và kẻ xấu trong xã hội xưa và nay?
- Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
- Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát (hoặc Bài ca ngất ngưởng của Nguyễn Công Trứ)
- Đề 4: Hãy viết bài tham gia cuộc vận động tìm giải pháp đảm bảo an toàn giao thông
- Viết bài nghị luận bày tỏ ý kiến của mình về phương châm Học đi đôi với hành.