Phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân Phân tích tác phẩm Vợ nhặt

Nội dung
  • 1 Đánh giá

Phân tích truyện Vợ nhặt

Phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân được Khoahoc.com.vn sưu tầm và đăng tải. Viết về nạn đói năm 1945 nhưng Vợ nhặt của Kim Lân không nhằm mục đích phơi bày thực trạng thê thảm của con người mà từ hiện thực đen tối ấy làm sáng lên vẻ đẹp của tình người. Dưới đây là bài văn mẫu phân tích tác phẩm Vợ nhặt của Kim Lân sẽ giúp các em tìm hiểu về vẻ đẹp của tình người ấy qua ba nhân vật chính của truyện là anh Tràng, bà cụ Tứ và người vợ nhặt

Câu 1: Phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân trong chương trình văn 12

Bài làm:

Nạn đói năm 1945 đã đi vào văn học như một đề tài gợi nhiều cảm hứng sang tác nhất. Nếu nhà văn Nguyên Hồng có tác phẩm “Địa ngục”, Tô Hoài có “Mười năm”,... thì Kim Lân đóng góp vào đề tài trên một trong những truyện ngắn xuất sắc nhất của mình: "Vợ nhặt". “Vợ nhặt” được đánh giá là một kiệt tác của văn học hiện thực Việt Nam khi tái hiện thành công bức tranh thảm thương, bế tắc của người nông dân trong nạn đói năm Ất Dậu.

Tác phẩm “Vợ nhặt” là được rút ra từ tập truyện "Con chó xấu xí" xuất bản năm 1962. Tiền thân của truyện là tiểu thuyết "Xóm ngụ cư" được viết sau Cách mạng tháng Tám. “Vợ nhặt” được đánh giá là một trong những tác phẩm hay nhất trong kho tàng truyện ngắn Việt Nam sau cách mạng.

Nhan đề tác phẩm tuy gắn gọn nhưng hàm chứa một ý nghĩa tư tưởng sâu xa. “Vợ nhặt” hiểu theo nghĩa đen là nhặt, lượm được vợ. Qua nhan đề này, ta thấy được sự rẻ rúng và tình cảnh thê thảm của người dân lao động nghèo trong nạn đói cũng như tình hình đen tối của xã hội Việt Nam thời bấy giờ. Nói như Kim Lân “Nhặt tức là nhặt nhạnh, nhặt vu vơ. Trong cảnh đói năm 1945 người dân lao động dường như khó ai thoát khỏi cái chết. Bóng tối của nó phủ lấy mọi xóm làng. Trong hoàn cảnh ấy giá trị một con người thật vô cùng rẻ rúng, người ta có thể có vợ theo chỉ nhờ mấy bát bánh đúc ngoài chợ - đúng là nhặt được vợ như tôi nói trong truyện”. Chính nhan đề độc đáo đã góp phần không nhỏ trong việc tạo ấn tượng và gợi sự tò mò của người đọc.

Thành công của “Vợ nhặt” trước hết là ở cách xây dựng một tình huống truyện độc đáo. Tác giả đã khéo léo dựng lên một tình huống mới lạ nhưng cũng không kém phần trớ trêu: anh cu Tràng nhặt vợ. Là “nhặt” chứ không phải lấy được. Có thể thấy, ở xã hội đó, giá trị của con người bị hạ thấp, không khác gì một món hàng có thể dễ dàng nhặt được ven đường. Với tình huống anh cu Tràng “nhặt” được vợ trong những ngày đói giữa xóm ngụ cư, Kim Lân muốn khắc hoạ số phận bi đát của người nông dân trước cách mạng tháng Tám đồng thời thể hiện sự cảm thông, sẻ chia trước khát khao hạnh phúc của những số phận khốn cùng ấy. Đọc “Vợ nhặt”, có nhận xét rằng: “Bốn bát bánh đúc thành lễ cưới thật rồi – Xin từ điển hãy thêm từ vợ nhặt – Ngòi bút Kim Lân tưởng như đùa như khóc – Đói quắt quay nhưng tha thiết con người”. Đọc những dòng tâm tư này ta hiểu, thẳm sâu của câu chuyện nhặt vợ tội nghiệp là khát khao về mái ấm gia đình, là tình yêu thương, đùm bọc giữa người với người. Cái đói tuy đáng sợ, hiện thực tuy thảm khốc nhưng đằng sau những điều đấy, Kim Lân còn muốn truyền tải một thông điệp khác đậm tính nhân văn: “Khi đói, người ta không nghĩ đến con đường chết mà chỉ nghĩ đến con đường sống. Dù ở trong tình huống bi thảm đến đâu, dù kề bên cái chết vẫn khát khao hạnh phúc, vẫn hướng về ánh sáng, vẫn tin vào sự sống và vẫn hi vọng ở tương lai, vẫn muốn sống, sống cho ra người”.

Nét đặc sắc của “Vợ nhặt” còn là ở cách xây dựng hình tượng nhân vật chân thật, sống động với những biến chuyển tinh vi trong thế giới nội tâm. Trước hết phải kể đến Tràng, chàng trai nghèo hiền lành luôn mang trong mình niềm khát khao về mái ấm gia đình. Diện mạo Tràng được miêu tả bằng những đường nét thô kệch “Hai con mắt nhỏ tí, hai bên quai hàm bạnh ra, bộ mặt thô kệch, thân hình to lớn vập vạp”. Tính tình lại nông nổi, có tật vừa đi vừa nói, thường tủm tỉm cười một mình. Gia cảnh Tràng cũng chả khá khẩm gì, anh sống với mẹ già và làm nghề kéo xe bò thuê để kiếm sống qua ngày. Có thể thấy, ở Tràng không có gì hấp dẫn và cuốn hút cả, vậy mà anh không những lấy được vợ mà còn lấy bằng cách đơn giản nhất: nhặt. Lần đầu chỉ bằng câu hò vu vơ – Tràng quen thị. Vài ngày sau gặp lại, Tràng sẵn sàng mời thị ăn mặc dù chính anh cũng chẳng giàu có gì. Miếng ăn lúc đó là cả mạng sống của con người nhưng anh vẫn sẻ chia với thị bởi đó là tình cảm của những con người đồng cảnh ngộ dành cho nhau. Chỉ vài câu bông lơn, đùa cợt “Nói đùa chứ có về với tớ thì ra khuân hàng lên xe rồi cùng về” mà từ một chàng trai ế chỏng chơ, Tràng có thêm một cô vợ mới. Trong hoàn cảnh mà người ta tranh nhau từng miếng ăn để sống như thế, hành động đưa thị về cùng đồng nghĩa với việc Tràng “đèo bòng” thêm một gánh nặng. Dù vô tư, vô lo đến đâu, lúc này bản thân anh cũng “chợn” khi nghĩ về tương lai, nhưng cuối cùng Tràng vẫn chậc lưỡi “kệ”. Qua cái chậc lưỡi và hành động có phần liều lĩnh ấy, ta thấy được tấm lòng nhân hậu, tình thương người và sâu xa hơn là khát khao về hạnh phúc gia đình ẩn dưới diện mạo có phần thô kệch.

Hạnh phúc gia đình cũng làm Tràng thay đổi. Nó giúp anh tạm quên đi cái đói trước mắt “Trong một lúc Tràng như quên hết những cảnh sống ê chề tăm tối hằng ngày, quên cả cái đói khát đang đe doạ” để chỉ còn “tình nghĩa” giữa hắn và người đàn bà đi bên cạnh “Một cái gì mới mẻ, lạ lắm chưa từng thấy ở người đàn ông ấy”. Tràng thấy mình như bước ra từ một giấc mơ, trong người “êm ái, lơ lửng”, anh thấy “yêu thương, gắn bó với cái nhà của hắn lạ lùng. Hắn sẽ cùng vợ sinh con đẻ cái ở đấy. Cái nhà như tổ ấm che mưa, che nắng. Một nguồn vui sướng mới, phấn chấn, tràn ngập trong lòng. Bây giờ hắn mới thấy hắn nên người, hắn thấy hắn có bổn phận phải lo lắng cho vợ con sau này.” Vượt qua thực tại, niềm hạnh phúc gia đình đã đem sinh khí đến cho cuộc sống đang tràn ngập sự chết chóc bủa vây, cho những con người nghèo khổ đang đấu tranh với cái đói.

Tiếp theo là bà cụ Tứ - hình tượng người mẹ Việt Nam hiền lành, nhân hậu giàu đức hi sinh. Nhân vật bà cụ Tứ hiện lên với dáng đi lọng khọng, chậm chạp, run rẩy, lưng còng vì tuổi tác “lọng khọng đi vào ngõ vừa đi vừa lẩm bẩm tính toán gì trong miệng”. Bà ngạc nhiên trước thái độ trịnh trọng khác thường của người con trai vô tâm tính. Khi thấy người đàn bà lạ ngồi ở đầu giường con trai hai lần chào mình bằng u, bà thấy mắt nhoèn đi, bà im lặng vì quá ngạc nhiên, hoàn toàn không hiểu đầu đuôi câu chuyện. Hàng loạt câu hỏi đặt ra trong đầu óc già nua của bà: “Người đàn bà nào lại đứng ở đầu giường thằng con mình thế kia? Không phải cái đục mà. Ai thế nhỉ? Sao lại chào mình bằng u?”. Phải, bà làm sao ngờ được giữa năm đói, nhà lại nghèo mà con bà dẫn về một cô vợ! Nghĩ về Tràng, bà thương con phải nhờ cơn đói khát mới lấy được vợ, về bản thân, bà thấy tủi vì chưa làm tròn bổn phận của người mẹ: lấy vợ cho con, bà thương và tủi cho vong linh chồng không biết mặt con dâu, không được chứng kiến ngày con trai lấy vợ. Và, về người đàn bà lạ bỗng trở thành con dâu mình, cụ Tứ cảm thấy thương cho số phận khốn khổ của thị, bởi vì cùng đường người ta mới lấy đến con trai bà mà không cần cưới hỏi. Trước “sự kiện” anh cu Tràng nhặt được vợ, lòng bà cụ ngổn ngang bao tâm trạng buồn vui, mừng tủi, và nhất là lo lắng vì nạn đói, lo “vợ chồng chúng nó có sống qua nổi cái thời tao loạn này không” – tất cả hoà trong dòng nước mắt nghẹn ngào. “Nước mắt cứ chảy xuống ròng ròng”, những giọt nước mắt ấy đã nói lên tất cả tấm lòng chân thật người mẹ hiền lành, nhân hậu. Có thể thấy, diễn biến tâm trạng bà cụ Tứ được khắc họa vô cùng chân thật, logic và xúc động. Đó là tấm lòng nhân hậu, bao dung, đầy hi sinh của người mẹ nghèo Việt Nam

Cuối cùng là nhân vật người vợ nhặt – nạn nhân của nạn đói. Đó là một người đàn bà tội nghiệp, đáng thương, không có gì kể cả tên riêng. Chính cái đói, cái nghèo đã đẩy thị vào bước đường cùng, đã khiến thị theo không người lạ về làm vợ chỉ vì được sống. Những mảnh đời như thị không phải là hiếm trong bối cảnh nạn đói. Trước khi trở thành vợ Tràng, thị là một người phụ nữ ăn nói chỏng lỏn, táo bạo và liều lĩnh: Lần gặp đầu tiên, thị chủ động làm quen, ra đẩy xe bò cho và “liếc mắt cười tít” với Tràng. Lần gặp thứ hai, thị “sầm sập chạy tới”, “sưng sỉa nói” và lại còn “đứng cong cớn” trước mặt Tràng. Khi được Tràng mời ăn bánh đúc, thị đã cúi gằm ăn một mạch bốn bát. Ăn xong còn lấy đũa quẹt ngang miệng và khen ngon… Tất cả những biểu hiện trên của thị suy cho cùng cũng là vì đói. Cái đói trong một lúc nào đó nó có thể làm biến dạng tính cách của con người. Xây dựng nhân vật thị, nhà văn thể hiện sự xót xa và cảm thông cho cảnh ngộ đói nghèo của người lao động trong những năm trước cách mạng. Khi trở thành vợ Tràng, thị đã trở về với chính con người thật của mình, một người đàn bà hiền thục, e lệ, lễ phép, đảm đang. “Thị ngồi im, bần thần nhìn ra sân, tay giữ chặt cái thúng”, dậy sớm, quét tước, dọn dẹp nhà cửa cùng mẹ chồng. Ngay đến người vô tâm như anh Tràng vẫn nhận ra sự thay đổi kỳ lạ ở con người thị. Tràng nom thị hôm nay khác lắm, rõ ràng là người đàn bà hiền hậu đúng mực không có vẻ gì chao chát, chỏng lỏn như mấy lần gặp ngoài chợ tỉnh. Đó là hình ảnh của một người vợ biết lo toan, thu vén cho cuộc sống gia đình. Hoá ra cái đanh đá, chỏng lỏn trước kia ở người đàn bà chẳng qua là do đói do khát mà ra. Khi được sống trong tình thương, trong mái ấm gia đình, người đàn bà ấy đã sống với bản chất tốt đẹp vốn có của mình, của một người phụ nữ Việt Nam.

Hình ảnh cuối tác phẩm “Trong mắt Tràng vẫn thấy đám người đói và lá cờ đỏ sao vàng bay phấp phới…” kết thúc câu chuyện nhưng cũng mở ra một niềm hi vọng mới. Nó gieo vào gia đình Tràng niềm tin vào một tương lai tươi sáng hơn, mà ở đó, không còn nạn đói, không còn lưu lạc, không còn áp bức. Nó cũng gieo vào lòng người đọc một niềm tin mãnh liệt rằng những con người khốn khổ sẽ được giải phóng dưới sự dẫn đường của lá cờ đỏ Cách mạng. Đây là một kết thúc phát triển theo chiều hướng tích cực của tác phẩm: Khi bị đẩy vào tình trạng đói khổ cùng đường thì người nông dân lao động sẽ hướng tới cách mạng. Đây cũng là xu hướng vận động chủ yếu của văn học Việt Nam từ 1945 đến 1975.

“Vợ nhặt” là một truyện ngắn đặc sắc của Kim Lân và của văn xuôi sau cách mạng. Giá trị hiện thực của tác phẩm ở chỗ, nó tái hiện chân thực hiện thực cuộc sống khốn cùng, bi thảm của người nông dân trong nạn đói khủng khiếp có thật trong lịch sử dân tộc năm 1945 đồng thời phơi bày tội ác của bon thực dân, phát xít khi ban hành chính sách vô lý: nhổ lúa trồng đay. Tác phẩm cũng mang một giá trị nhân đạo sâu sắc. Qua “Vợ nhặt” Kim Lân đã tố cáo tội ác của thực dân Pháp và phát xít Nhật đồng thời bày tỏ niềm xót thương, đồng cảm cho số phận những người nông dân nghèo trong xã hội. “Vợ nhặt” cũng là một bài ca về tình người, tình mẫu tử khi mà ở đó, trong cái đói, cái nghèo, con người vẫn yêu thương, cảm thông, đùm bọc nhau và không từ bỏ hi vọng sống.

Về nghệ thuật, tác phẩm đã dựng lên một tình huống truyện lạ, độc đáo, đầy ý nghĩa. Nghệ thuật trần thuật linh hoạt và sử dụng ngôn ngữ có tính tạo hình đặc sắc cũng góp phần truyền tải nội dung và tư tưởng của tác phẩm một cách hiệu quả. Bên cạnh đó, cách xây dựng hình tượng nhân vật, miêu tả diễn biến tâm lí và hành động cũng đạt tới trình độ tinh vi và mẫu mực.

Có thể nói, qua “Vợ nhặt”, Kim Lân đã để lại một dấu ấn sâu đậm trong lòng người đọc và góp vào văn đàn Việt Nam một bức tranh đầy chân thực, xúc động về người nông dân trong xã hội cũ.

Phân tích truyện ngắn “Vợ nhặt” của nhà văn Kim Lân được Khoahoc.com.vn sưu tầm. Hy vọng bài văn mẫu này sẽ giúp ích cho các em có thêm tài liệu tham khảo, trau rồi thê vốn từ, từ đó hoàn thiện bài văn của mình hay hơn, sinh động hơn. Chúc các em học tốt.