Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu Phân tích chiếc thuyền ngoài xa
Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được Khoahoc.com.vn tổng hợp và đăng tải. Thông qua bài văn phân tích không chỉ giúp các em thấy được tài năng của nhà văn trong việc xây dựng tình huống truyện độc đáo mà còn thấy được vai trò của tình huống truyện trong việc bộc lộ nội dung tư tưởng của truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa. Để tìm hiểu rõ hơn các em cùng tham khảo nội dung chi tiết bài văn để hiểu được tình huống truyện và có thêm cơ sở trong việc phần tích Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu nhé.
Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
Câu 3: trang 197 sgk Ngữ Văn 12 tập hai
Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu
I. Hướng dẫn phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa
1. Phân tích yêu cầu đề bài
– Yêu cầu về nội dung: phân tích tình huống truyện trong Chiếc thuyền ngoài xa.
– Phạm vi tư liệu, dẫn chứng: các từ ngữ, hình ảnh, chi tiết tiêu biểu trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu (tác phẩm nằm trong chương trình Ngữ văn lớp 12).
– Phương pháp lập luận chính: phân tích.
2. Luận điểm phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa
– Luận điểm 1: Định nghĩa về tình huống truyện
– Luận điểm 2: Trong truyện Chiếc thuyền ngoài xa có những tình huống truyện nào xảy ra?
Có 2 tình huống truyện trong tác phẩm đó là:
+ Tình huống thứ nhất: Phát hiện về nghệ thuật của người nghệ sĩ Phùng.
+ Tình huống thứ hai: Nhận thức về cảnh đời éo le.
– Luận điểm 3: Ý nghĩa của tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa.
>>> Xem kỹ lại nội dung soạn bài Chiếc thuyền ngoài xa (Nguyễn Minh Châu) để xác định đúng luận điểm, luận cứ cho bài phân tích.
3. Tóm tắt tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa ngắn gọn nhất
Nghệ sĩ Phùng được giao nhiệm vụ đến vùng biển miền Trung chụp những tấm ảnh đẹp cho bộ lịch năm mới. Sau gần một tuần lễ tìm kiếm, Phùng đã tìm được một cảnh đắt trời cho đó là hình ảnh của con thuyền ở ngoài xa ẩn hiện trong màn sương sớm. Cảnh đẹp đã làm anh ngây ngất, thăng hoa, thấy “bối rối”, thấy “trái tim mình như có gì đó bóp thắt vào”, nháy máy lia lịa. Nhưng khi chiếc thuyền tiến lại gần, anh lại tận mắt chứng kiến cảnh tượng bạo lực gia đình của chính những người trên con thuyền ngư phủ đẹp như mơ mà anh vừa chụp kia…
=> Ý nghĩa tình huống truyện:
+ Hai phát hiện của người nghệ sĩ đã giúp tác giả chỉ ra rằng: cuộc đời chứa đựng nhiều điều nghịch lí, mâu thuẫn; không thể đánh giá con người, cuộc sống ở dáng vẻ bề ngoài mà phải đi sâu tìm hiểu, phát hiện bản chất bên trong.
+ Nhấn mạnh mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời: “Nghệ thuật vị nhân sinh”.
4. Hai tình huống đều là tình huống nhận thức
– Tình huống thứ nhất: Phùng đã nhận ra được vẻ đẹp chân thiện mĩ của sự hoàn thiện, khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn tức là đã nhận ra được những giá trị đích thực mà nghệ thuật mang tới cho con người.
– Tình huống thứ hai: Phùng nhận ra được sự đa diện của cuộc đời và con người, không thể chỉ nhìn cuộc đời và con người bằng con mắt màu hồng xa rời thực tế.
II. Dàn ý chi tiết phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa
Mở bài: Giới thiệu tác giả, tác phẩm, vấn đề nghị luận
- Nguyễn Minh Châu là người mở đường tài hoa và tinh anh nhất thời hậu chiến. Tác phẩm của Nguyễn Minh Châu luôn có sự kết hợp hài hòa giữa yếu tố đời thường và tầm triết luận sâu sắc. Những sáng tác của ông luôn cho người đọc thấy một cuộc đấu tranh, suy tư trăn trở về cuộc đời và con người.
- Chiếc thuyền ngoài xa ra đời năm 1983 nhưng bốn năm sau mới ra mắt, in trong tập truyện cùng tên (1987), mang tới cho người đọc nhiều triết luận đúng đắn về cuộc sống và con người
- Tình huống truyện: độc đáo, đầy bất ngờ'
Thân bài
a) Tình huống truyện
- Khái niệm: Những sự kiện diên ra trong khoảnh khắc để từ đó nhân vật xuất hiện và bộc lộ cá tính, phẩm chất và quá trình nhận thức của mình.
- Có 3 loại tình huống truyện:
- Tình huống hành động
- Tình huống tâm trạng
- Tình huống nhận thức
=> Tình huống truyện có vai trò quan trọng trong việc xây dựng nhân vật và thể hiện tư tưởng, quan niệm thẩm mĩ của tác giả trong tác phẩm.
b) Tình huống truyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa
- Tình huống trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa là tình huống nhận thức. Tức là những tình huống được xây dựng để giúp nhân vật (con người) nhận thức ra một triết lí, một sự thực nào đó trong cuộc sống. Qua hai tình huống truyện ấy, không chỉ Phùng, Đẩu mà cả người đọc dường như cũng ngộ ra được những chân lí, những vẻ đẹp vốn dĩ tiềm ẩn đằng sau những hình ảnh chân thực mà chúng ta được nhìn thấy, được chứng kiến.
- Tình huống thứ nhất - phát hiện vê nghệ thuật của người nghệ sĩ Phùng:
- Phùng được giao nhiệm vụ chụp một bộ ảnh về biển cho bộ lịch năm mới. Anh đã tới vùng biển từng là chiến trường cũ của mình, để thăm người bạn, để canh chụp cảnh biển. Sau gần một tuần lễ tìm kiếm, Phùng đã tìm được một cảnh đắt trời cho đó là hình ảnh của con thuyền ở ngoài xa.
- Phùng cảm giác mình đã tìm được vẻ đẹp hoàn hảo của tự nhiên, là cái đẹp đã đạt tới chân thiện mĩ trong tâm hồn con người. Phùng đã nháy máy lia lịa để ghi lại cảnh của con thuyền ở ngoài xa ấy.
- Tình huống thứ hai - Nhận thức về cảnh đời éo le
- Khi con thuyền tiến lại gần, Phùng đã chứng kiến cảnh tượng bạo lực gia đình, của chính những người trên con thuyền tuyệt đẹp mà Phùng vừa chụp kia. Cảnh tượng ấy khiến anh thấy ngỡ ngàng, bất ngờ đến mức cứ há hốc mồm ra mà nhìn.
- Trong câu chuyện với người đàn bà hàng chài ở tòa án huyện, Phùng và cả Đẩu đều có được những bài học quý giá về con người và cuộc đời: Người đàn bà xấu xí, thô kệch, rỗ mặt ấy cương quyết không chịu bỏ chồng chính vì cuộc sống éo le, bất hạnh. Và cũng chính từ câu chuyện ấy, Phùng phát hiện ra vẻ đẹp tiềm ẩn bên trong những con người với vẻ ngoài xấu xí.
=> Cả hai tình huống đều là tình huống nhận thức vì:
- Tình huống thứ nhất, Phùng đã nhận ra được vẻ đẹp chân thiện mĩ của sự hoàn thiện, khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn. Tức là Phùng đã nhận ra được những giá trị đích thực mà nghệ thuật mang tới cho con người. Giá trị ấy lớn hơn tất cả những gì mà vật chất có thể mang lại.
- Tình huống thức hai, Phùng nhận ra được sự đa diện của cuộc đời và con người. Không thể chỉ nhìn cuộc đời và con người bằng con mắt màu hồng xa rời thực tế, mà phải nhìn thật sâu, thấu hiểu được cảnh đời, số phận của họ. Con thuyền khi ở ngoài xa thì thật đẹp nhưng khi tiến lại gần thì là cuộc đời bất hạnh của một người đàn bà. Người đàn bà xấu xí, thô kệch ấy lại ẩn giấu bên trong là một người phụ nữ thấu hiểu, trải đời, giàu đức hi sinh.
- Qua đó, Nguyễn Minh Châu muốn gửi gắm quan niệm, triết lí của mình về cuộc đời và con người: Cần phải có cái nhìn đa diện, nhiều chiều để phát hiện ra bản chất thật sau vẻ bề ngoài của hiện tượng.
Kết bài: Khẳng định lại giá trị của tình huống truyện trong việc thể hiện tư tưởng và quan niệm của tác giả về cuộc sống và con người.
III. Sơ đồ tư duy tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa
IV. Văn mẫu phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa
Phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 1
Nam Cao đã từng có một quan điểm nghệ thuật rất hay và sâu sắc rằng: “Chao ôi! Nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, cũng không nên là ánh trăng lừa dối mà nghệ thuật chỉ có thể là những tiếng đau khổ kia thoát ra từ những kiếp lầm than. Và nhà văn không được trốn tránh sự thật mà phải đứng trong lao khổ mở hồn ra để đón lấy những tiếng vang động của đời”. Quan điểm ấy của nhà văn Nam Cao đã cho chúng ta những cảm nhận sâu sắc về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời, mà có thể tổng kết bằng mấy chữ ngắn gọn - “nghệ thuật vị nhân sinh”. Cùng với quan điểm ấy, nhà văn Nguyễn Minh Châu trong các sáng tác của mình đã thể hiện rất rõ lập trường của bản thân khi liên tục tạo ra các tác phẩm làm rõ khởi nguồn của nghệ thuật thông qua số phận có phần bất hạnh của các nhân vật. Trong tác phẩm Chiếc thuyền ngoài xa, mối quan hệ giữa nghệ thuật mà cuộc đời cũng như giá trị nhân văn của tác phẩm đều xuất phát từ tình huống truyện đặc sắc, được tác giả xây dựng vô cùng ấn tượng.
Tình huống truyện có thể hiểu là hoàn cảnh, bối cảnh của một câu chuyện mà trong đó có một hoặc một vài sự kiện đặc biệt xảy ra, mà theo như Nguyễn Minh Châu đó là “tình thế của câu chuyện, là khoảnh khắc mà trong đó sự sống hiện ra rất đậm đặc”. Và chính tình huống truyện đã trở thành chìa khóa then chốt, là điểm tựa để tác giả dễ dàng làm nổi bật cuộc sống cũng như cá tính của toàn nhân vật, đồng thời cũng là cách để tác giả bộc lộ những tư tưởng, những suy nghĩ của của mình. Và trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa tình huống truyện ở đây là một tình huống mang tính nhận thức thông qua hai bức tranh, một là bức tranh ở bãi biển sáng sớm và bức tranh thứ hai chính là bức tranh ở tòa án của huyện. Điểm chung là chúng đều chứa đựng những nghịch lý bất ngờ, từ đó để lại cho nhiếp ảnh Phùng, cũng như độc giả những nhận thức mới mẻ về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống.
Tình huống truyện đầu tiên diễn ra trên bãi biển, bắt đầu với chuyện nhiếp ảnh gia Phùng được giao nhiệm vụ chụp lấy một bức ảnh đẹp về cảnh biển buổi sáng sương mù để in làm bộ lịch nghệ thuật. Với tâm thế của một nhà nghệ thuật chân chính khao khát cái đẹp, Phùng đã mai phục ở bãi biển này đến cả chục ngày, tuy nhiên vẫn chưa chụp được bức nào thật sự đáng giá. Trong khi người nghệ sĩ quyết định chọn một bức ảnh trong số ảnh đã chụp được làm kết quả báo báo, thì bất ngờ anh lại gặp được một cảnh “đắt” trời cho, cảnh mà suốt đời cầm máy Phùng chưa bao giờ thấy được mà người nghệ sĩ đã xuýt xoa ví như “một bức tranh mực tàu của một danh họa thời cổ”. Hình ảnh chiếc thuyền lưới vó dưới ánh bình minh mờ ảo, với những gam màu hồng hồng của ánh nắng bình minh tạo nên một “vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích”, mà đứng trước cảnh tượng ấy người nghệ sĩ thấy trái tim mình thắt lại, bối rối, rồi đưa máy lên chụp “liên thanh” hết cả một phần tư cuốn phim. Thậm chí người nghệ sĩ đã nhận định rằng bản thân đã “khám phá ra chân lý của sự toàn thiện, khám phá ra khoảnh khắc trong ngần của tâm hồn”. Đây có thể nói là sự phát hiện của một người nghệ sĩ chân chính, người có thể hiểu, khám phá và chỉ cần lướt qua cũng đã có thể nắm bắt được cái thần của bức tranh, nắm bắt được linh hồn của sự vật. Và cũng từ tình huống truyện thông qua phát hiện thứ nhất của nghệ sĩ Phùng, nhà văn Nguyễn Minh Châu đã khéo léo bộc lộ quan điểm của mình về cái đẹp “bản thân cái đẹp là đạo đức”. Thế nhưng đối lập hoàn toàn với cái cảnh “đắt” trời cho, với bức tranh toàn thiện, toàn mỹ, thì bước xuống từ chính con thuyền ấy lại là hai con người đọng lại như một nỗi ám ảnh, trên con thuyền đó cũng có những mảnh đời bất hạnh, những nỗi khốn khổ của một gia đình làng chài lênh đênh trên sóng biển ẩn dưới cái vẻ đẹp thơ mộng đến không thực trong mắt người nghệ sĩ. Tiếng thét của người đàn ông dường như đã xé tan cái bức họa toàn bích “Cứ ngồi nguyên đấy. Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Bóng người hiện rõ hơn, đó là một người đàn bà xấu xí, thô kệch, mặt đầy rỗ, trông mệt mỏi sau một đêm dài thức kéo lưới, người đàn ông đi sau mái tóc tổ quạ, chân đi hình chữ bát, ánh mắt độc dữ nhìn chằm chằm vào tấm lưng người đàn bà. Rồi một cuộc bạo hành gia đình diễn ra ngay trước mắt Phùng, gã đàn ông rút thắt lưng quất liên tiếp vào vợ, miệng rít lên những tiếng căm hận “Mày chết đi cho ông nhờ. Chúng mày chết hết đi cho ông nhờ”, những tưởng chỉ có kẻ thù mới đối với nhau như thế chứ không phải là một cặp vợ chồng. Người đàn bà im lặng, nhẫn nhục chịu đựng, không chống trả cũng không chạy trốn. Tất cả những sự việc kinh hoàng ấy diễn ra nhanh quá, khiến Phùng chưa thể phản ứng lại được, bởi chỉ mới 5, 10 phút trước nó còn là một cảnh “đắt” trời cho, còn bây giờ lại là một cảnh khủng khiếp, Phùng không thể hiểu nổi những gì đang xảy ra trước mắt. Chỉ kịp vứt máy ảnh chạy đến ngăn cản, rồi anh chàng lại chứng kiến tiếp cảnh đứa con trai vì thương mẹ mà đánh lại cả bố, nó lại căm thù bố như kẻ thù, như ác quỷ. Cuối cùng những con người ấy rời đi chỉ để lại một bãi cát mênh mông và hoang vắng, không còn bóng dáng của một cảnh “đắt” trời cho mà người nghệ sĩ chộp được ban nãy. Như vậy tổng kết lại tình huống truyện trên bãi biển mở ra bằng một bức họa tuyệt diệu, toàn bích, sau đó bị phá vỡ bởi cảnh tượng gia đình tan hoang, thù ghét lẫn nhau cũng bởi chính những con người bước xuống từ chiếc thuyền trong sương sớm. Và cái phát hiện tưởng như trong sáng, tổng hợp vẻ đẹp chân thiện mỹ ấy hóa ra lại ẩn chứa những điều ghê gớm và đáng sợ.
Tình huống truyện thứ hai diễn ra trong tòa án huyện, trước những nhận thức của mình về gia đình của người đàn bà làng chài, Phùng và Đẩu (chánh án của toà án huyện) đã có ý muốn giúp chị ly hôn. Thế nhưng trái với những mong đợi về việc người phụ nữ này có thể thoát khỏi cảnh bạo hành, thì chị lại khăng khăng không muốn ly hôn: “Con lạy quý tòa, quý tòa bắt tội con cũng được, phạt tù con cũng được, đừng bắt con bỏ nó,...”. Phản ứng ấy của người đàn bà làng chài khiến cả Phùng và Đẩu vô cùng khó hiểu, gian phòng trở nên ngột ngạt và khó chịu vô cùng. Cũng từ đây Phùng bắt đầu nhận thức được nỗi lòng của người đàn bà, hóa ra chị cam chịu nhẫn nhục từng ấy năm, rốt cuộc cũng chỉ vì một chục đứa con đang chờ ăn trên chiếc thuyền của hai vợ chồng chị. Qua lời lý giải của người đàn bà, Đẩu cũng hiểu ra rằng mình không hiểu nỗi khốn khổ của một người đàn bà, đặc biệt lại là người đàn bà làm nghề chài lưới mà không có người đàn ông chèo chống những ngày mưa bão, trở trời. Mình bản thân chị không thể nào gồng gánh nuôi nấng từng ấy đứa con mà không có chồng, những nỗi vất vả ấy cả Phùng và Đẩu sẽ chẳng bao giờ hiểu được bởi họ không phải là chị, không phải là một người đàn bà có số kiếp bất hạnh và chịu đựng hy sinh vì con cái. Và trong cuộc đời khổ cực của người đàn bà làng chài cũng có những lúc chị cảm thấy hạnh phúc khi được nhìn thấy các con ăn no, chỉ bấy nhiêu đấy thôi cũng đáng để cho chỉ đánh đổi bằng những trận đòn, sự nhẫn nhục, chịu đựng chung sống với gã chồng vũ phu. Ngay lúc này đây trong đầu Phùng và Đẩu mới vỡ ra một lẽ rằng cái có lý nó tồn tại ngay trong nghịch lý của cuộc sống, sự cố chấp không ly hôn của người đàn bà nếu chỉ nhìn từ vị trí khách quan của hai người thì đó là nghịch lý đến khó hiểu, thế nhưng đứng vào vị trí của người phụ nữ đó thì nó lại trở nên có lý. Rốt cuộc phụ nữ hy sinh, chịu đựng cũng chỉ vì con cái, vì muốn con được ăn no, được lớn lên, và được có một gia đình đầy đủ cả cha lẫn mẹ. Không chỉ vậy xét từ vị trí của người đàn bà làng chài, thì sự vũ phu của chồng cũng chỉ vì khổ quá, chị hiểu chồng và bênh vực chồng, người đã có ơn với chị, và chị trân trọng gia đình, mái ấm của mình, không muốn nó sự xáo trộn nào cả.
Như vậy thông qua hai tình huống truyện ở bờ phá và ở tòa án huyện, tác giả Nguyễn Minh Châu đã cho chúng ta những nhận thức rõ nét hơn về cách nhìn nhận cuộc đời và con người. Chúng ta không thể chỉ nhìn nhận sự vật một cách phiến diện, mà phải có cái nhìn đa diện nhiều chiều, không thể chỉ muốn thu lấy một vẻ đẹp tĩnh mà bỏ qua sự tồn tại của con người, cũng không thể vì tôn thờ nghệ thuật tuyệt đối mà bỏ qua những sự thật, những éo le bất công đang tồn tại đằng sau nó, mà khi làm nghệ thuật quan trọng nhất người nghệ sĩ phải đi sâu vào cuộc đời để thấm thía, để cảm nhận vẻ đẹp thật sự không ở đâu xa trong chính tâm hồn của con người. Bởi nghệ thuật thì xa nhưng cuộc đời thì gần. Đồng thời tình huống truyện cũng cho chúng ta những cảm nhận rõ ràng hơn về vẻ đẹp tâm hồn của người đàn bà làng chài.
Phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 2
Nguyễn Minh Châu là một cây bút lớn của nền văn học Việt nam hiện đại. Ông có nhiều đóng góp cho văn chương của dân tộc trong thời kì kháng chiến chống mỹ cứu nước. Đặc biệt tác phẩm "Chiếc thuyền ngoài xa" là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của tác giả sau năm 1975. Nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo.
Đối với truyện ngắn, tình huống truyện là yếu tố then chốt và có vai trò quan trọng. Tình huống truyện cũng là cơ sở để tác giả xây dựng câu chuyện độc đáo, thu hút sự chú ý của người đọc.
Trong truyện ngắn, "Chiếc thuyền ngoài xa" bao trùm tác phẩm là cách Nguyễn Minh Châu xây dựng tình huống nhận thức mang ý nghĩa khám phá và phát hiện đời sống. Truyện xoay quanh đến chuyến đi thực tế của nhân vật phùng ở vùng biển miền Trung. Trong chuyến đi này, nhân vật Phùng có những chuyển biến nhận thức rất sâu sắc.
Tình huống truyện diễn ra với hai phát hiện đầy trái ngược của nhiếp ảnh Phùng. Phát hiện thứ nhất là vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm. Sau mấy ngày chờ đợi, Phùng bất ngờ khám phá vẻ đẹp của con thuyền được bao bọc "trong bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào". Đối với Phùng đang đi tìm kiến cái đẹp thì đây là một cảnh đắt trờ cho. Khung cảnh ấy hiện lên như một bức tranh toàn bích. Và đối với một người nghệ sĩ như Phùng, đứng trước cảnh đẹp đó, Phùng vô cùng xúc động và hạnh phúc. Anh đã liên tục bấm máy ghi lại khoảnh khắc đắt giá mà hiếm khi có được lần hai như này.
Tuy nhiên, đây mới là phát hiện thứ nhất của nhân vật Phùng. Khi con thuyền vào gần bờ cũng chính là lúc Phùng phát hiện ra nghịch cảnh trái ngược hoàn toàn với lần phát hiện thứ nhất. Bước xuống từ con thuyền kia là hình ảnh con người nhưng xấu xí và thô kệch. Từ ngoại hình cho đến tính cách đều toát lên là những con người lam lũ nghèo khổ. Và tiếp nữa, Phùng phát hiện ra cảnh bạo hành ngay trước mặt mình. Hình ảnh người đàn ông vùng biển đánh đập dã man người vợ của mình. Kèm theo đó là những lời chửi rủa vô cùng thậm tệ. Đáng ngạc nhiên hơn là hình ảnh trẻ thơ như thằng Phác cũng lao vào đánh bố để bảo vệ mẹ. Những cảnh này xưa nay vốn trái lại với luân thường đạo lý. Nhưng hôm nay đây, Phùng được chứng kiến tận mắt những hình ảnh chân thực nhất. Sau những phát hiện đầy bất ngờ như vậy, dường như trong nhận thức của nhân vật Phùng đã có sự thay đổi.
Tình huống truyện tiếp theo là cuộc đối thoại giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà làng chài ở toàn án huyện. Nhân vật Phùng tiếp tục được thay đổi nhận thức và Đẩu cũng là nhân vật rút ra được nhiều bài học cuộc sống. Trái với lời khuyên của Đẩu dành cho người đàn bà làng chài là hãy bỏ chồng vì không thể nào sống được với gã đàn ông vũ phu đầy đọa người phụ nữ như vậy. Nhưng không, tưởng chừng là những lời khuyên chân thành ấy người phụ nữ sẽ nghe theo nhưng người phụ nữ ấy lại xin tòa không ly hôn với người đàn ông đó. Tưởng chừng như đầy trái ngược vì không ai muốn sống cùng với người đàn ông vũ phu. Ngay cả Đẩu và Phùng cũng đều hết sức ngạc nhiên. Nhưng sau tất cả những điều phi lí ấy lại trở thành những lí le vô cùng thuyết phục trong hoàn cảnh của người phụ nữ làng chài. Cả phùng và Đẩu đều được nghe những câu chuyện gan ruột từ đáy lòng của người phụ nữ làng chài trong cuộc sống mưu sinh trên biển phải cần đến bàn tay của người đàn ông. Cuộc trò chuyện này cũng giúp Đẩu và phùng nhận ra được nhiều chân lý của cuộc sống và giúp hai nhân vật nhận thấy được còn rất nhiều góc khuất đằng sau cuộc sống.
Thông qua tình huống truyện của "chiếc thuyền ngoài xa" Nguyễn Minh Châu thể hiện rất nhiều thông điệp có ý nghĩa sâu sắc. Không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận đánh giá một hiện tượng mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều.Thông qua đó, nhà văn cũng nêu lên thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Người nghệ sĩ không thể đứng từ xa để nhìn ngắm cuộc sống mà phải kéo gần khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời. Tình huống truyện cũng góp phần tô đậm giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 3
Một là, nghịch lý giữa đời sống và nghệ thuật. Cả một tập thể nghệ sĩ nhiếp ảnh trong “dăm tháng” trời đã chụp được “hàng trăm bức ảnh đẹp, chụp công phu …”, được ông Trưởng phòng “là người sâu sắc, lại cũng lắm sáng kiến” đánh giá là “đẹp thì đẹp thực … và nhất là lại có hồn nữa. Đúng là những bức ảnh nghệ thuật”. Thế mà, cũng chính vì Trưởng phòng thông minh này lại “không thể chọn đủ cho mười hai tháng, vẫn đang còn thiếu một tờ”. Thì ra người nghệ sĩ dù có cố gắng bao nhiêu, nỗ lực bao nhiêu, đầu tư nhiều thời gian, bỏ ra nhiều tâm huyết và trí tuệ bao nhiêu cũng chưa thể đáp ứng được đòi hỏi của cuộc sống. Người nghệ sĩ không bao giờ được thoả mãn, phải luôn coi mục đích nghệ thuật luôn ở phía trước để phấn đấu. Đây có thể coi là thông điệp nghệ thuật thứ nhất của nhà văn.
Hai là, nghịch lý giữa cảnh đẹp của thiên nhiên thơ mộng trữ tình và di hoạ chiến tranh. Cái bờ biển ấy cách Hà Nội hơn sáu trăm cây số, được Phùng – nhà nghệ sĩ nhiếp ảnh nhìn bằng con mắt “nhà nghề”, nó “thật là thơ mộng”, “thật là phẳng lặng và tươi mát như da thịt của mùa thu …”, thế nhưng lại có “những bãi xe tăng do bọn thiết giáp nguỵ vứt lại trên đường rút chạy hồi “tháng ba bảy nhăm” (bây giờ sau gần mười năm, đã bị hơi nước gặm mòn và làm cho sét gỉ)…”.
Theo tôi từ chi tiết này ít nhất cũng mang ba dụng ý nghệ thuật sau. Thứ nhất, nó nhắc nhở người nghệ sĩ đừng bao giờ quên cái nghịch lý của đời sống. Nghệ thuật không chỉ ở cảnh đẹp thơ mộng mà còn ở cả cái hiện thực sần sù gai góc kia. Thứ hai, để bạn đọc khỏi ngỡ ngàng nó như là một sự báo hiệu đưa dần bạn đọc vào chủ đề chính thể hiện ở những tình huống nghịch lý căng thẳng dữ dội hơn. Đây có thể coi là một biện pháp tâm lý mời gọi bạn đọc theo dõi những diễn biến tiếp sau của câu chuyện. Thứ ba, nó nhắc khéo bạn đọc bối cảnh ra đời của câu chuyện là chưa xa một thời chiến tranh (chú ý một chi tiết nhỏ “sau gần mười năm”).
Mà chiến tranh bao giờ cũng đi liền với sự mất mát, đau thương nên di hoạ, cả ở phương diện vật chất và phương diện tinh thần vẫn còn tồn tại dai dẳng. Do vậy, những điều gì xấu, phi nhân tính được đề cập ở phần sau của câu chuyện cũng không có gì lạ. Cái mà chúng ta cần là làm sao xoá bớt dần di hoạ chiến tranh, làm liền sẹo những nỗi đau mà chiến tranh để lại. Đây cũng là một ẩn ý cần được khai thác sâu hơn.
Ba là, nghịch lý giữa cảnh thiên nhiên đẹp thơ mộng hữu tình và cái đẹp vô hồn. Chúng ta tạm quy ước “đẹp” là một khái niệm mang tính ước lệ cao để khỏi phải vướng vào hàng rào của đường biên khái niệm này, và thống nhất với nhau, ở ngoài đời cũng như trong văn chương vẫn tồn tại cái đẹp có hồn và cái đẹp vô hồn.
Lần thứ nhất Phùng không lấy “cảnh người ta đẩy một chiếc thuyền xuống nước” vì “cảnh đẩy thuyền đầy không khí vui nhộn… thật hùng tráng” này lại có gì “hơi thô lỗ”. Lần thứ hai Phùng cũng không thể lấy cảnh “thuyền đánh cá thu lưới vào lúc nhập nhoạng sáng” vì đó là “một cảnh chết” có quá nhiều người đã khai thác. Lần thứ ba Phùng cũng không lấy cảnh “Đằng đông đã trắng sáng.
Trên một nửa vòm trời sao đã lặn hết. Những đám mây hình vỏ sò cứ hồng lên dần, trong khi đó, mặt biển tuy đã sáng rõ, đến cái mức đứng trong bờ cũng nhìn thấy từng đường gấp nếp lăn tăn trên mặt tấm thép dát màu xám đục ”. Nhưng cũng chính cảnh này “sao mà tẻ nhạt, tiếng sóng ồ ồ dội vào giấc ngủ suốt đêm chạy trốn đi đâu hết, biển im thít và không màu sắc, như một con sứa khổng lồ giạt vào bãi”.
Phải đến lần thứ tư Phùng mới quyết định bấm máy để thu vào ống kính “… vài ba chiếc mũi thuyền và một cảnh đan chéo của những tấm lưới đọng đầy những giọt nước, mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc trong bản hòa tấu ánh sáng và bóng tối, tượng tưng cho khung cảnh bình minh là một khoảng sáng rực rỡ đến mức chói mắt, trong khoảng sáng đó sẽ hiện lên trong tầm nhìn thật xa những đường nét của thân hình một người đàn bà đang cúi lom khom, sải cánh tay thật dài về phía trước kéo tấm lưới lên khỏi mặt nước, và phía sau lưng người đàn bà, hình một ngư phủ và một đứa trẻ đứng thẳng trên đầu mũi thuyền, dùng lực toàn thân làm đòn bẩy nâng bổng hai chiếc gọng lưới chĩa thẳng lên trời”.
Đúng là một cảnh đẹp có hồn, khoẻ khoắn, trong sáng, tươi vui! Đó là một cảnh thật hài hoà về hình ảnh, màu sắc. Nhà hoạ sĩ đã hoà phối sắc màu có cả ánh sáng và bóng tối, cả cận cảnh và viễn cảnh “văn trong hữu hoạ” trong văn có hoạ và có cả “văn trung hữu nhạc” trong văn có nhạc (mỗi mắt lưới sẽ là một nốt nhạc), có cả cảnh thiên nhiên và cảnh con người lao động, có cảnh khách quan và có cả chủ quan của chủ thể (chói mắt). Để có được cảnh này Phùng phải qua bốn lần quyết định. Nghệ thuật là như vậy, phải là sự công phu, tìm tòi biết chờ đợi, đòi hỏi một sự kiên nhẫn cao độ.
Và cũng trớ trêu thay, nghệ thuật không chỉ thế là có được mà còn phải là “giời cho” nữa. Chính Phùng đã tâm niệm điều này: “… nếu không có thêm sự sắp đặt đầy tài tình của ngẫu nhiên thì với tài ba đến bao nhiêu, anh cũng chỉ… thu được những tấm ảnh vô hồn”. Bốn là, nghịch lý giữa “cái đẹp tuyệt đỉnh của ngoại cảnh” và cảnh con người lam lũ, vất vả, khổ đau. Phải đến lần thứ năm Phùng mới được “một cảnh “đắt” trời cho”: “… Mũi thuyền in một nét mơ hồ lòe nhòe vào bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào.
Vài bóng người lớn lẫn trẻ con ngồi im phăng phắc như tượng trên chiếc mui khum khum, đang hướng mặt vào bờ. Tất cả khung cảnh ấy nhìn qua những cái mắt lưới và tấm lưới nằm giữa hai chiếc gọng vó hiện ra dưới một hình thù y hệt cánh một con dơi, toàn bộ khung cảnh từ đường nét đến ánh sáng đều hài hoà và đẹp, một vẻ đẹp thực đơn giản và toàn bích khiến đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?”. Phải có một bút lực mạnh mẽ, một sự am hiểu sâu sắc về hội hoạ, một sự nhạy cảm trước cái đẹp mới có thể viết nổi đoạn văn miêu tả “cái đẹp tuyệt đỉnh”, “toàn bích” này.
Câu đầu là ước lệ, là cảm nhận chung “một bức tranh mực tàu…”. Các câu sau là những hình ảnh cụ thể với mũi thuyền trôi trong bầu sương mù, vài bóng người cả người lớn lẫn trẻ con, rồi những cái mắt lưới và tấm lưới… Cảnh thật huyền ảo (bầu sương mù trắng như sữa), tinh khôi, tinh khiết (màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào), vừa tĩnh tại (im phăng phắc), vừa sống động (hướng mặt vào bờ).
Các tính từ láy lòe nhòe, hồng hồng, phăng phắc, khum khum tăng cường thêm độ huyền ảo, như hư như thực. Các so sánh tinh tế trắng như sữa, im phăng phắc như tượng, y hệt cánh một con dơi làm đậm thêm chất tạo hình của bức tranh. Dường như ngôn từ bất lực trước cái đẹp, nhà hoạ sĩ buộc lòng phải đưa “cái tôi” chủ quan tham gia vào “quá trình thưởng thức”: “… đứng trước nó tôi trở nên bối rối, trong trái tim như có cái gì bóp thắt vào?” làm cho bức tranh kia nhuốm thêm “sắc màu” tâm trạng.
Nhưng oái oăm thay, nghịch lý và trớ trêu thay, cảnh đẹp nhất, có hồn nhất lại là cảnh ẩn chứa những điều tệ hại nhất, xót xa nhất! Đó là tiếng quát của gã ngư phủ: “Động đậy tao giết cả mày đi bây giờ”. Đó là “một thân hình quen thuộc của đàn bà vùng biển, cao lớn với những đường nét thô kệch. Mụ rỗ mặt. Khuôn mặt mệt mỏi sau một đêm thức trắng kéo lưới, tái ngắt và dường như đang buồn ngủ…”. Đó là một gã đàn ông “mái tóc như tổ quạ… chân đi chữ bát… hàng lông mày cháy nắng rủ xuống hai con mắt đầy vẻ độc dữ…”
Chưa hết, tiếp theo là cảnh hành hung đánh đập, phi nhân tính rùng rợn: “Lão đàn ông lập tức trở lên hùng hổ, mặt đỏ gay gắt, lão rút trong người ra một chiếc thắt lưng của lính ngụy ngày xưa… chẳng nói chẳng rằng lão trút cơn giận như lửa cháy bằng cách dùng chiếc thắt lưng quật tới tấp vào lưng người đàn bà, lão vừa đánh vừa thở hồng hộc, hai hàm răng nghiến ken két…”.
Nghiệt ngã thay! Khát vọng tìm đến cái đẹp để mong muốn làm cho con người đẹp lên là rất đáng quý nhưng người nghệ sĩ phải tỉnh táo để nhận ra cái thực tế phũ phàng của đời sống. Và đây cũng là lời cảnh tỉnh cho tất cả mọi người: hãy tỉnh táo trước cái đẹp. Bất cứ cái đẹp nào cũng rất có thể ẩn chứa những điều phức tạp đi ngược lại hạnh phúc của con người.
Cái tình huống nghịch lý này trong Chiếc thuyền ngoài xa đã xua tan màn khói lãng mạn phủ lên hình ảnh tuyệt đẹp kia để làm trơ ra cái sự tàn nhẫn của đời thường. Người nghệ sĩ không chỉ nhận thấy cảnh đẹp lãng mạn bên ngoài kia mà còn phải nhìn thấy cả cảnh hành hạ man rợ của lão ngư phủ nọ. Đây là bài học, là trách nhiệm, cũng là lương tâm của nghệ thuật.
Dưới góc độ nhân vật chúng ta cũng thấy nhà văn đã sử sụng nguyên tắc nghịch lý, đối lập trong xây dựng nhân vật: cái tốt cái xấu lẫn lộn, đan cài với nhau. Người đàn bà xấu xí thô kệch ấy có vẻ bề ngoài thật quá nhẫn nhục, cam chịu “ba ngày một trận nhẹ, năm ngày một trận nặng” nhưng vẫn không chịu “chia tay” với gã chồng vũ phu tàn bạo. Bởi vì, như lời giãi bày gan ruột của người mẹ đáng thương ta mới thấy bà có một tấm lòng hi sinh vô bờ “… đám đàn bà hàng chài ở thuyền chúng tôi cần phải có người đàn ông để chèo chống khi phong ba, để cùng làm ăn nuôi nấng đặng một sắp con nhà nào cũng trên dưới chục đứa… Đàn bà ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không thể sống cho mình…”.
Còn gã đàn ông kia cũng không hẳn hoàn toàn xấu. Vì đâu mà lão trở lên vũ phu tàn độc như vậy? Khi xưa, theo lời vợ lão thì đó “là một anh con trai cục tính nhưng hiền lành lắm, không bao giờ đánh đập…” . Vẫn theo lời vợ lão thì là do lão “khổ quá” vì làm ăn nuôi con. Rồi đói, khi “ông trời làm biển động suốt hàng tháng, cả nhà vợ chồng con cái toàn ăn cây xương rồng luộc chấm muối…”. Trước sau thì hắn vẫn là người lao động lương thiện, hơn nữa lại là lao động chính, kiếm sống bằng mồ hôi nước mắt của mình để nuôi mười mấy miệng ăn. Lão đánh vợ để giải tỏa những bức bối.
Ta hãy để ý khi đánh vợ lão cũng đau đớn “Cứ mỗi nhát quất xuống lão lại nguyền rủa bằng cái giọng rên rỉ đau đớn”. Lão cũng không phải là kẻ hiếu chiến, không phải là kẻ chỉ thích gây gổ đánh đấm người khác, bằng cớ là ngay Phùng cũng khẳng định “lão đánh tôi hoàn toàn vì mục đích tự vệ”. Còn thằng Phác đứa trẻ ham hiểu biết (cặn kẽ giải thích cho tôi nghe cuộc sống của những giống chim trên rừng), sớm lam lũ lao động, hồn nhiên chơi với “tôi” như một người bạn thân và rất thương mẹ… Bên cạnh những phẩm chất ấy trong nó cũng ẩn chứa một tính côn đồ nguy hiểm: sẵn sàng cầm dao đâm bố để cứu mẹ. Nó sớm đã có ý thức báo thù bằng cách lấy bạo lực để ngăn cản bạo lực.
Như vậy, nhân vật trong Chiếc thuyền ngoài xa được cấu trúc với tất cả sự phức tạp của nó, không hẳn xấu cũng không hẳn là kẻ tốt. Xét đến cùng lão chồng vừa là thủ phạm gây ra cảnh đau đớn cho người vợ, cho con đẻ đồng thời cũng lại là nạn nhân của cuộc sống còn tăm tối khốn khổ. Người vợ cũng vừa là nạn nhân vừa là thủ phạm, mà theo chính lời mụ thì là do “cái lỗi… là đám đàn bà ở thuyền đẻ nhiều quá”. Thằng Phác cũng thế, vừa là nạn nhân của thói côn đồ lại vừa là thủ phạm kích động thói côn đồ và chính nó cũng sớm có tính côn đồ. Những nhân vật đó chưa mang chiều kích của nhân vật tính cách với những quá trình phát triển tâm lý nhưng nó đã làm tốt chức năng thể hiện chủ đề tác phẩm.
Một phương diện rất thành công của truyện ngắn là cách chọn điểm nhìn trần thuật. Nhà văn trao điểm nhìn trần thuật cho Phùng, nhân vật – người kể chuyện là cách chọn tối ưu. Phùng kể lại kể chuyện mình trực tiếp chứng kiến, trực tiếp tham gia vào biến cố câu chuyện (nói chuyện với Phác – đứa con; đánh lại gã chồng để tránh đòn cho người đàn bà; nghe lời trần tình, giãi bày của người vợ) nên câu chuyện kể ra rất thật, vì đó là chuyện của người kể, kể lại chuyện của mình. Cách kể này chúng tôi đã khái quát thành khái niệm “kịch hoá nhân vật – người kể chuyện”.
Người kể chuyện đóng vai nhân vật nhảy vào các biến cố, tham gia trực tiếp vào các diễn biến của cốt truyện, rồi kể lại cho bạn đọc nghe; điều đó đã tạo ra xu hướng trần thuật tiệm tiến gần hơn với sự thật ngoài đời. Thứ nữa, Phùng là người trải nghiệm, giàu vốn sống (từng có mười năm cầm súng đánh giặc, nay làm nghề chụp ảnh được đi nhiều nơi, tiếp xúc nhiều người) nên lời văn trần thuật chứa nhiều yếu tố triết lý, ví như “ở đời cái gì cũng thế, con người bản tính vốn lười biếng, đôi khi mình hãy cứ để cho mình rơi vào hoàn cảnh bị ép buộc phải làm, không khéo lại làm được một cái gì”.
Phải là người như Phùng, nghề nghiệp như Phùng bạn đọc mới tin và thấm thía triết lý này. Hơn nữa Phùng là một nghệ sĩ nhiếp ảnh nên tất yếu phải có yếu tố nghề nghiệp trong lời kể. Thế cho nên lời văn ở đây tràn đầy chất thơ, chất trữ tình và cũng đậm chất hoạ, chất điện ảnh thì đó cũng là điều dễ hiểu. Và các thủ pháp nghệ thuật trong lời kể cũng rõ cái dấu ấn nghề nghiệp gắn với nhân vật ví dụ một phép so sánh tả một ngư phủ. Ngư phủ thì bao giờ cũng đi liền với cái thuyền và lưới, thế nên:
“Tấm lưng rộng và cong như chiếc thuyền”
“Những món tóc vàng hoe có chỗ đỏ quạch như mớ lưới to đã bợt bạt”
“Cặp mắt thật đen gợi cho tôi nghĩ đến con mắt người ta vẽ trên đầu mũi thuyền”
Chủ thể trần thuật là ngôi thứ nhất, người kể chuyện đồng nhất với nhân vật đã thống nhất cả hai điểm nhìn, của nhân vật vốn bị chia cắt vào từng cảnh, của người kể vốn luôn xuyên suốt các sự kiện trên một trục thời gian đã tạo nên sự nhất quán của lời văn trần thuật trong cấu trúc văn bản, vừa đi sâu, cụ thể vào các sự kiện vừa quy chiếu một cách toàn diện, hệ thống cốt truyện. Vậy nên truyện cứ lôi kéo ta vào từng chi tiết vừa hấp dẫn mời gọi ta dõi theo cái kết cục của câu chuyện sẽ như thế nào, liệu người vợ có bỏ lão chồng kia không, liệu tòa có xử cho họ ly hôn không, rồi số phận những đứa con họ sẽ ra sao…???
Đối với nhà văn tài năng thì có khi người đọc chỉ cần đọc cái tên truyện là đã nhận chân ra được phong cách của ông ta. Các tiêu đề truyện Bức tranh, Một lần đối chứng, Mảnh trăng cuối rừng, Chiếc thuyền ngoài xa… đã góp phần làm rõ hơn nội dung tác phẩm, rõ cái dấu ấn của nhà văn Nguyễn Minh Châu. ở đây “chiếc thuyền” nghệ thuật đang trôi trên “ngoài xa” cuộc đời đã nói lên rất hay mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc sống, nghệ thuật nằm trong cuộc sống này, biểu hiện cuộc sống. Người nghệ sĩ chèo lái con thuyền nghệ thuật ấy vừa phải hiểu sâu sắc con thuyền nghệ thuật vừa phải nắm bắt rõ những luồng lạch, độ nông sâu của biển cả cuộc đời. Có vậy mới đưa nghệ thuật tới chân trời lý tưởng của hạnh phúc và cái đẹp của con người.
Phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 4
Nguyễn Minh Châu là một nhà văn có phong cách rất độc đáo, trong mỗi tác phẩm của mình ông đều lồng ghép một triết lý sống sâu sắc gửi tới người đọc của mình.
Tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một tác phẩm hay kể về số phận của người đàn bà vùng biển nghèo khổ lam lũ, hy sinh cho chồng cho con không than thở, oán hận nửa lời. Một đức hy sinh nhẫn nhịn, cam chịu tới tận cùng của mọi nỗi đau làm lay động trái tim người đọc sâu sắc.
Trong truyện ngắn của mình tác giả đã tạo ra tình huống truyện vô cùng độc đáo. Anh phóng viên, nhiếp ảnh gia Phùng đi thực tế săn ảnh nghệ thuật tìm cái đẹp hoàn mỹ trong cuộc sống để làm lịch. Nhưng rồi tình cờ anh gặp được một người đàn bà tuổi trung niên, rồi phát hiện ra một bức tranh tuyệt tác đó chính là hình ảnh chiếc thuyền ngoài xa thấp thoáng trong sương sớm, khi ẩn khi hiện, thiên nhiên hiện lên bao la trước mắt anh khiến cho anh vô cùng mừng rỡ vì tìm được tuyệt phẩm của đời mình.
Chiếc thuyền ngoài xa thật đẹp biết bao, nhưng khi nó lại gần thì anh phóng viên Phùng phải chứng kiến một sự thật đau lòng, bi thương đó là hình ảnh những người nông dân lao động nghèo khổ. Họ đang làm việc một cách cực nhọc không hề hạnh phúc. Anh nghe thấy người ngư dân quát tháo vợ với những lời lẽ tức giận, căm phẫn “Cứ ngồi yên đấy. Động đậy tao giết cả mày bây giờ”.
Hình ảnh người ngư dân hiện lên khuôn mặt đỏ căng, phừng phừng tức giận lão rút chiếc thắt lưng da ngày xưa quật tới tấp vào người phụ nữ trước mặt, rồi đánh xong dường như mệt quá hắn há mồm thở hồng hộc như con lợn đói ăn, hai hàm răng nghiến lại, cứ mỗi lần vung dây lưng lên rồi quăng xuống hắn lại rít lên “mày chết đi cho ông nhờ”.
Hình ảnh người đàn bà nhẫn nhịn, chịu đựng mọi đòn roi những lời lăng nhục xỉa xói của chồng không một lời oán thán, hay cãi lại, không một sự chống cự dù là yếu ớt nhất khiến cho Phùng sững người kinh ngạc. Rồi Phùng thấy một người con trai chạy tới chỗ người đàn ông trung niên kia cướp lấy thắt lưng trong tay ông bố của mình. Nó uất ức cầm chiếc thắt lưng và vung tay mạnh quật chiếc thắt lưng da vào vùng ngực của người đàn ông trung niên – chính là bố mình để bảo vệ người đàn bà tội nghiệp là mẹ nó. Một hành động bộc phát, một tình huống nghịch lý.
Tình huống truyện của tác giả vô cùng éo le, giữa một bên là sự huyền ảo, mê đắm của cái đẹp tựa như thần tiên long lanh trong sương sớm đó chính là hình ảnh chiếc thuyền đánh cá ngoài khơi, với sự thật phũ phàng về những thân phận con người sở hữu chiếc thuyền đánh cá đó.
Những số phận bị cuộc sống ngược đãi, lam lũ không có hạnh phúc. Một tình huống truyện thật éo le, bi kịch tạo nên dấu ấn khó phai trong lòng người đọc. Đồng thời thể hiện quan điểm của tác giả là nghệ thuật trước hết phải gắn liền với đời sống thực tế của con người. Cũng giống như nhà văn Nam Cao đã từng nói “nghệ thuật không cần phải là ánh trăng lừa dối, không nên là ánh trăng lừa dối, nghệ thuật chỉ là sự đau khổ thoát ra từ những kiếp người lầm than”.
Một tình huống nữa khá bi kịch, độc đáo được tác giả xây dựng lên khiến người đọc không khỏi ám ảnh và suy nghĩ: Đó là người đàn bà được quan tòa mời đến nhằm giải quyết vụ việc con đánh cha và khuyên người đàn bà hãy ly dị với người chồng vũ phu hà khắc kia đi, bởi chính quyền đã nhiều lần khuyên nhủ răn đe anh ta nhưng không hề có sự cải thiện. Anh chồng vẫn thường xuyên đánh vợ rất tàn nhẫn. Tuy nhiên, người đàn bà đã giải thích, rằng đàn bà sống ở thuyền chúng tôi phải sống cho con chứ không sống như những người trên đất được. Một người đàn bà cam chịu và hiểu rõ nỗi khổ của thân phận mình, nên bà không bao giờ oán thán.
Những lời lẽ chân thành của người đàn bà kia đã giúp cho những người đại diện cho quan tòa, cho công lý công bằng trong xã hội hiểu ra nghịch lý của cuộc đời đó là “Sống ở thuyền cần phải có một người đàn ông chèo lái dù hắn tàn bạo độc ác”. Những người làm công lý luôn muốn mang tới cuộc sống tốt đẹp cho những số phận, những hoàn cảnh tăm tối, nhưng phải có giải pháp thực tế phù hợp, còn nếu giải pháp không thỏa đáng thì lòng tốt sẽ trở thành thứ lý thuyết xa rời thực tế, xa xỉ, xa hoa mà thôi.
Thông qua tình huống truyện này khiến cho nhân vật Phùng nhận ra được bản chất thật sự của cuộc sống không thể nhìn từ bên ngoài mà phải đi sâu vào bên trong nhiều phương diện khác nhau thì mới có thể cảm nhận rõ được. Có những thứ khi nhìn từ xa ta thấy chúng rất đẹp nhưng lại gần mới hiểu được những xấu xa, đau khổ bên trong nó.
Phân tích tình huống truyện Chiếc thuyền ngoài xa mẫu 5
Nguyễn Minh Châu là một cây bút lớn của nền văn học Việt Nam hiện đại. Ông có nhiều đóng góp cho văn chương của dân tộc trong thời kì kháng chiến chống Mỹ cứu nước. Đặc biệt tác phẩm “Chiếc thuyền ngoài xa” là một trong những truyện ngắn tiêu biểu của tác giả sau năm 1975. Nhà văn đã xây dựng được một tình huống truyện độc đáo.
Đối với truyện ngắn, tình huống truyện là yếu tố then chốt và có vai trò quan trọng. Tình huống truyện cũng là cơ sở để tác giả xây dựng câu chuyện độc đáo, thu hút sự chú ý của người đọc.
Trong truyện ngắn “Chiếc thuyền ngoài xa”, bao trùm tác phẩm là cách Nguyễn Minh Châu xây dựng tình huống nhận thức mang ý nghĩa khám phá và phát hiện đời sống. Truyện xoay quanh chuyến đi thực tế của nhân vật Phùng ở vùng biển miền Trung. Trong chuyến đi này, nhân vật Phùng có những chuyển biến nhận thức rất sâu sắc.
Tình huống truyện diễn ra với hai phát hiện đầy trái ngược của nhiếp ảnh Phùng. Phát hiện thứ nhất là vẻ đẹp của chiếc thuyền ngoài xa trong sương sớm. Sau mấy ngày chờ đợi, Phùng bất ngờ khám phá vẻ đẹp của con thuyền được bao bọc “trong bầu sương mù trắng như sữa có pha đôi chút màu hồng hồng do ánh mặt trời chiếu vào”. Đối với Phùng người đang đi tìm kiếm cái đẹp thì đây là một cảnh đắt trời cho. Khung cảnh ấy hiện lên như một bức tranh toàn bích. Và đối với một người nghệ sĩ như Phùng, đứng trước cảnh đẹp đó, Phùng vô cùng xúc động và hạnh phúc. Anh đã liên tục bấm máy ghi lại khoảnh khắc đắt giá mà hiếm khi có được lần hai như này.
Tuy nhiên, đây mới là phát hiện thứ nhất của nhân vật Phùng. Khi con thuyền vào gần bờ cũng chính là lúc Phùng phát hiện ra nghịch cảnh trái ngược hoàn toàn với lần phát hiện thứ nhất. Bước xuống từ con thuyền kia là hình ảnh con người nhưng xấu xí và thô kệch. Từ ngoại hình cho đến tính cách đều toát lên là những con người lam lũ nghèo khổ. Và tiếp nữa, Phùng phát hiện ra cảnh bạo hành ngay trước mặt mình.
Hình ảnh người đàn ông vùng biển đánh đập dã man người vợ của mình. Kèm theo đó là những lời chửi rủa vô cùng thậm tệ. Đáng ngạc nhiên hơn là hình ảnh trẻ thơ như thằng Phác cũng lao vào đánh bố để bảo vệ mẹ. Những cảnh này xưa nay vốn trái lại với luân thường đạo lý. Nhưng hôm nay đây, Phùng được chứng kiến tận mắt những hình ảnh chân thực nhất. Sau những phát hiện đầy bất ngờ như vậy, dường như trong nhận thức của nhân vật Phùng đã có sự thay đổi.
Tình huống truyện tiếp theo là cuộc đối thoại giữa Phùng, Đẩu và người đàn bà làng chài ở tòa án huyện. Nhân vật Phùng tiếp tục được thay đổi nhận thức và Đẩu cũng là nhân vật rút ra được nhiều bài học cuộc sống. Trái với lời khuyên của Đẩu dành cho người đàn bà làng chài là hãy bỏ chồng vì không thể nào sống được với gã đàn ông vũ phu đày đọa người phụ nữ như vậy. Nhưng không, tưởng chừng là những lời khuyên chân thành ấy người phụ nữ sẽ nghe theo nhưng người phụ nữ ấy lại xin tòa không ly hôn với người đàn ông đó.
Tưởng chừng như đầy trái ngược vì không ai muốn sống cùng với người đàn ông vũ phu. Ngay cả Đẩu và Phùng cũng đều hết sức ngạc nhiên. Nhưng sau tất cả những điều phi lí ấy lại trở thành những lí lẽ vô cùng thuyết phục trong hoàn cảnh của người phụ nữ làng chài. Cả Phùng và Đẩu đều được nghe những câu chuyện gan ruột từ đáy lòng của người phụ nữ làng chài trong cuộc sống mưu sinh trên biển phải cần đến bàn tay của người đàn ông. Cuộc trò chuyện này cũng giúp Đẩu và Phùng nhận ra được nhiều chân lý của cuộc sống và giúp hai nhân vật nhận thấy được còn rất nhiều góc khuất đằng sau cuộc sống.
Thông qua tình huống truyện của “Chiếc thuyền ngoài xa”, Nguyễn Minh Châu thể hiện rất nhiều thông điệp có ý nghĩa sâu sắc. Không thể đơn giản, sơ lược khi nhìn nhận đánh giá một hiện tượng mà cần có cái nhìn đa diện, nhiều chiều. Thông qua đó, nhà văn cũng nêu lên thông điệp về mối quan hệ giữa nghệ thuật và cuộc đời. Người nghệ sĩ không thể đứng từ xa để nhìn ngắm cuộc sống mà phải kéo gần khoảng cách giữa nghệ thuật và cuộc đời. Tình huống truyện cũng góp phần tô đậm giá trị nhân đạo của tác phẩm.
Phân tích tình huống truyện trong truyện ngắn Chiếc thuyền ngoài xa của Nguyễn Minh Châu được Khoahoc.com.vn chia sẻ trên đây. Hy vọng với tài liệu này sẽ giúp ích cho các em có thêm tài liệu tham khảo, trau dồi thêm vốn từ, hoàn thiện bài văn hay hơn, sinh động hơn. Chúc các em học tốt, nếu thấy tài liệu hữu ích hãy chia sẻ cho các bạn cùng tham khảo nhé.