Bài làm văn số 6 lớp 10: Kết hợp thuyết minh Tác giả Nguyễn Du và Truyện Kiều
Đề bài: Thuyết minh tác giả Nguyễn Du và tác phẩm truyện Kiều. (Bài viết làm văn số 6 lớp 10 trang 84 sgk. Kết hợp thuyết minh tác giả và tác phẩm)
Bài làm:
“Đời nay đẹp gấp trăm lần thuở trước
Giở trang Kiều còn rung động ý thơ
Thơ Người mãi sống cùng đất nước
Dù mai sau dù có bao giờ”
(Thăm mộ cụ Nguyễn Du - Hoàng Trung Thông)
Trên nền văn học Việt Nam, Nguyễn Du được xem như một trong những ngôi sao sáng nhất. Bằng ngòi bút tài hoa, trái tim đa cảm cùng ánh mắt “trông thấu cả sáu cõi” của mình, ông đã để lại một sự nghiệp văn học có giá trị to lớn, đặc biệt nhất phải kể đến Truyện Kiều, tác phẩm kiệt xuất của văn học Việt Nam.
Nguyễn Du (1766 - 1820), tên tự là Tố Như, hiệu là Thanh Hiên, quê ở làng Tiên Điền, huyện Nghi Xuân, tỉnh Hà Tĩnh. Ông xuất thân trong một gia đình đại quý tộc nổi tiếng về đường khoa hoạn, có nhiều người đỗ đạt cao và làm quan to trong triều đình. Thế nên, ở vùng Hồng Lĩnh (quê Nguyễn Du), nhân dân thường truyền tụng nhau câu ca dao:
“Bao giờ Ngàn Hống hết cay
Sông Rum hết nước họ này hết quan”
Ngoài ra, gia đình Nguyễn Du cũng có truyền thống lâu đời về văn học nghệ thuật. Ông nội là Nguyễn Quỳnh, một nhà triết học chuyên nghiên cứu Kinh dịch. Cha là Nguyễn Nghiễm, một sử gia, một nhà thơ đồng thời là quan tể tướng của triều Lê. Mẹ ông là Trần Thị Tần (vợ thứ ba của Nguyễn Nghiễm), một phụ nữ xinh đẹp, tài hoa và giỏi nghề hát xướng, xuất thân từ làng quan họ Bắc Ninh. Chính vì vậy, từ thuở bé, Nguyễn Du đã được đắm mình trong những làn điệu dân ca phía Bắc. Nguyễn Khản, anh cùng cha khác mẹ với Nguyễn Du, giữ một chức quan to ở phủ Chúa Trịnh. Ông giỏi thơ Nôm, ưa soạn nhạc và thạo cả nghệ thuật xây dựng trang trí. Vì có niềm đam mê đặc biệt với đàn ca hát xướng nên trong phú Nguyễn Khản lúc nào cũng có các nàng ca kĩ, đoàn hát ả đào trình diễn suốt ngày đêm. Chắc có lẽ bắt đầu từ đây, hình ảnh người kĩ nữ xinh đẹp, tài hoa nhưng bạc mệnh đã trở thành chân dung khắc sâu sắc trong tâm trí Nguyễn Du.
Nguyễn Hành, Nguyễn Thiện, những người cháu của Nguyễn Du cũng là những nhà thơ, nhà văn nổi tiếng lúc bấy giờ. Trong “An Nam ngũ tuyệt” được ca ngợi thời bấy giờ thì Nguyễn Du và Nguyễn Hành là hai cái tên góp mặt trong số đó.
Nguyễn Du là người thông minh, học rộng, hiểu nhiều nhưng cuộc đời lại gặp nhiều biến cố. Từ lúc sinh ra đến mười tuổi, ông sống sung túc với gia đình, đến mười một tuổi cha mất, tiếp đó hai năm sau mẹ mất, cuộc sống của ông bắt đầu cực khổ, trôi dạt khắp nơi: có lúc ở nhà anh là Nguyễn Khản, có khi lại nương tựa anh vợ là Đoàn Nguyễn Tuấn, có khi làm con nuôi cho quan họ Hà.
Sống và trưởng thành trong một giai đoạn lịch sử và xã hội đầy biến thiên, chàng trai trẻ Nguyễn Du dẫu tài hoa vẫn bị cuốn vào sự “xoay vần của con tạo”. Khi làn sóng Tây Sơn bùng nổ, bởi tư tưởng trung quân nên ông lui vềởẩn sau khi phản kháng không thành. Đến khi triều Nguyễn thành lập, Nguyễn Du ra làm quan nhưng lòng vẫn day dứt, trăn trở trước cuộc đời, trước “những điều trông thấy”.
Nguyễn Du mất vào ngày mồng 10 tháng 8 âm lịch (tức 16 tháng 9 năm Canh Thìn - 1820).
Nguyễn Du là người tài hoa uyên bác, thông hiểu cả đạo Nho, Phật, Đạo. Điều đó được thể hiện rõ qua các sáng tác văn, thơ bằng cả chữ Hán và chữ Nôm của ông.
Suốt cả đời cầm bút, tuy để lại số lượng tác phẩm văn chương không nhiều, nhưng tác phẩm nào, Nguyễn Du cũng để lại dấu ấn đặc biệt trong lòng độc giả. Về chữ Hán, ông có ba tập thơ: Thanh Hiên thi tập, Nam trung tạp ngâm, Bắc hành tạp lục (Ghi chép linh tinh trong chuyến đi sang phương Bắc). Về chữ Nôm, những tác phẩm tiêu biểu nhất gồm: Đoạn trường tân thanh (tên Truyện Kiều là do quần chúng đặt cho tác phẩm), Văn chiêu hồn (Văn tế thập loại chúng sinh), Sinh tế Trường Lưu nhị nữ, Thác lời trai phường nón,...
Truyện Kiều (chữ Nôm: 傳翹), tên gốc là Đoạn trường tân thanh (chữ Hán: 斷腸新聲), là truyện thơ kinh điển trong Văn học Việt Nam, được viết bằng chữ Nôm theo thể lục bát của Nguyễn Du, gồm 3254 câu, dựa theo tiểu thuyết Kim Vân Kiều truyện của Thanh Tâm Tài Nhân, Trung Quốc.
Nội dung của Truyện Kiều được chia làm ba phần: Gặp gỡ và đính ước, gia biến và lưu lạc, đoàn tụ.
Thúy Kiều là một người con gái tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng trong một gia đình trung lưu lương thiện. Trong buổi đi chơi xuân, Thúy Kiều đã gặp Kim Trọng, một người thư sinh “phong tư tài mạo tót vời”. Giữa hai người chớm nở một mối tình đẹp đẽ, sau đó hai người đã đính ước với nhau.
Khi Kim Trọng về quê chịu tang chú, gia đình Thúy Kiều bị mắc oan bởi thằng bán tơ. Nàng đã quyết định bán mình cho Mã Giám Sinh để lấy tiền chuộc cha và Vương Quan, đồng thời nhờ Thúy Vân trả nghĩa cho Kim Trọng. Thúy Kiều bị Mã Giám Sinh, Tú Bà, Sở Khanh lừa gạt, đẩy vào lầu xanh. Sau đó Thúy Kiều được Thúc Sinh chuộc ra nhưng vợ của Thúc Sinh là Hoạn Thư là người ghen tuông tàn nhẫn, Thúy Kiều bị đày đọa cả về thể xác và tinh thần. Kiều trốn đến nương nhờ Sư Giác Duyên ở nơi cửa Phật. Giác Duyên gửi nàng cho Bạc Bà, không ngờ Bạc Bà “học với Tú Bà đồng môn”.Ở đây, Thúy Kiều gặp Từ Hải, hai người trở thành tri âm tri kỷ, Từ Hải đã giúp Thúy Kiều báo ân báo oán. Do mắc lừa Hồ Tôn Hiến, Từ Hải bị giết, Thúy Kiều bị ép gả cho viên thổ quan. Thúy Kiều đau đớn trầm mình xuống sông Tiền Đường và được sư Giác Duyên cứu lần hai. Lần thứ hai, Kiều nương nhờ nơi cửa Phật.
Kim Trọng sau nửa năm chịu tang chú đã trở lại tìm Kiều, biết Kiều bán mình cứu cha thì đau lòng khôn nguôi. Theo lời dặn của Kiều, cha mẹ Kiều cho Thuý Vân kết duyên với Kim Trọng. Dù kết duyên với Thúy Vân nhưng Kim Trọng vẫn lưu luyến mối tình với Kiều, sau nhiều lần tìm và hỏi thăm khắp nơi thì cuối cùng mọi người gặp được Thúy Kiều, gia đình Kiều được đoàn tụ. Trong ngày đoàn viên, Thúy Vân lên tiếng muốn Kim Kiều tái hợp, nhưng Kiều muốn “đem tình cầm sắt đổi ra cầm cờ”. Cuối cùng cả hai nguyện ước “duyên đôi lứa cũng là duyên bạn bầy”.
Truyện Kiều được đánh giá là một trong những tác phẩm xuất sắc nhất của văn học trung đại Việt Nam. Giá trị của tác phẩm được thể hiện trên cả hai phương diện nội dung và nghệ thuật.
Về nội dung, tác phẩm mang tính hiện thực và nhân đạo sâu sắc. Truyện Kiều đã vẽ nên một bức tranh hiện thực đầy sống động về một xã hội đương thời nơi đồng tiền lên ngôi và nhân phẩm con người, đặc biệt là người phụ nữ bị chà đạp.
Bên cạnh đó Truyện Kiều còn mang đậm giá trị nhân đạo khi lên án, tố cáo những thế lực tàn bạo đã chà đạp lên quyền sống của con người. Từ một cô tiểu thư khuê các, Kiều trở thành hàng hoá để cho người ta mua bán, rồi rơi vào lầu xanh tới hai lần. Cuộc đời Thuý Kiều là một bản cáo trạng đanh thép tố cáo xã hội phong kiến bất nhân, xã hội đẩy con người, đặc biệt là người phụ nữ đến bước đường cùng. Dù vậy, trong bức tranh hiện thực đen tối ấy vẫn sáng lên vẻ đẹp của nhân cách con người. Đó là Thúy Kiều “gần bùn mà chẳng hôi tanh mùi bùn”, là Kim Trọng thủy chung, tình nghĩa, là Từ Hải hào hiệp,.... Thông qua câu chuyện và nhân vật của họ, Nguyễn Du gửi gắm khát vọng hạnh phúc, khát vọng tự do của bản thân mình. Mặc khác, Truyện Kiều còn thể hiện sự đồng cảm, xót thương của chính tác giả đối với số phận con người, đặc biệt là người phụ nữ trong xã hội đương thời.
Về nghệ thuật, có thể nói, bút pháp tả cảnh ngụ tình, miêu tả tâm lý nhân vật, nghệ thuật tự sự,.... đã đạt tới đỉnh cao. Với bút pháp của một nghệ sĩ thiên tài, tiếng Việt trong Truyện Kiều đã đạt đến độ giàu và đẹp. Chính vì vậy, rất nhiều câu thơ trở thành mẫu mực được nhiều nhà thơ học tập và đông đảo độc giả yêu mến.
Hàng trăm năm qua, Truyện Kiều vẫn luôn tồn tại trong đời sống của dân tộc Việt, một số nhân vật trong truyện trở thành nhân vật điển hình, như: Sở Khanh, Tú bà,... Nhận xét về Nguyễn Du và Truyện Kiều, tác giả Mộng Liên Đường trong lời tựa Truyện Kiều đã viết: “Lời văn tả ra hình như máu chảy ở đầu ngọn bút, nước mắt thấm tờ giấy, khiến ai đọc đến cũng phải thấm thía, ngậm ngùi, đau đớn đến đứt ruột. Tố Như sử dụng tâm đã khổ, tự sự đã khéo, tả cảnh cũng hệt, đàm tình đã thiết, nếu không có con mắt trông thấu cả sáu cõi, tấm lòng nghĩ suốt cả nghìn đời thì tài nào có cái bút lực ấy”
Xem thêm bài viết khác
- Phân tích ý nghĩa một hình tượng mà anh (chị) thấy thích thú trong một bài thơ hoặc đoạn thơ ngắn
- Nội dung chính bài Viết quảng cáo
- Nhận xét về sự chọn lựa, vận dụng và phối hợp các phương pháp thuyết minh trong đoạn trích sau
- Tìm và phân tích các luận điểm, luận cứ và phương pháp lập luận trong đoạn trích ở bài Khái quát văn học Việt Nam từ TK X đến hết TK XIX( Ngữ văn 10 tập 1, tr 109)
- Hưởng ứng đợt thi đua Xây dựng môi trường xanh, sạch, đẹp do Đoàn Thanh niên Cộng sản Hồ Chí Minh phát động...
- Nếu được yêu cầu viết đoạn kết thúc của truyện, anh (chị) sẽ đồng tình với cách kết thúc như đã có hay sẽ chọn một cách kết thúc khác? Trình bày và giải thích ý kiến của mình
- Anh (chị) hãy cho biết hàm nghĩa các cụm từ “lòng bốn phương” và “mặt phi thường”. Tìm những từ ngữ thể hiện sự trân trọng, kính phục của Nguyễn Du với Từ Hải
- Nêu khái quát những giá trị cơ bản về nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Trãi Bài 4 trang 13 SGK Ngữ văn 10 tập 2
- Hãy tìm những từ ngữ cho thấy Kiều nghĩ đến cái chết. Việc tập trung dày đặc những từ ngữ đó có ý nghĩa gì
- Sau đây là một số quảng cáo
- Soạn văn bài: Đại cáo bình Ngô ( Phần một: Tác giả)
- Hàm nghĩa của văn bản văn học là gì? Cho ví dụ cụ thể.