Đề 1: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”.
So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”. Sau đây, KhoaHoc gửi đến bạn đọc những bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung bài gồm:
- Dàn ý chung
- Bài mẫu 1: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”
- Bài mẫu 2: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”
- Bài mẫu 3: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”
- Bài mẫu 4: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”
Dàn ý chung
1. Mở bài: Giới thiệu đề tài nghị luận: so sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều.
2. Thân bài:
a. Nét giống nhau giữa tài sắc của Thúy vân và Thúy Kiều
- Vẻ đẹp từ bên ngoài:
- Hai ả tố nga
- Mười phân vẹn mười.
- Vẻ đẹp từ tâm hồn bên trong: Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
⇒ Ngợi ca kín đáo của nhà thơ về tâm hồn và phẩm hạnh của hai chị em.
b. Nét khác nhau giữa tài sắc của Thúy vân và Thúy Kiều
- Vẻ đẹp Thúy Vân:
- Vẻ đep thanh tú, miệng nàng cười như hoa nở, mái tóc nàng đen mượt, làn da trắng mịn như tuyết.
- Dự báo cuộc đời êm ả sau này nàng (mày thua, tuyết nhường)
- Vẻ đẹp Thúy Kiều
- Người con gái “sắc sảo, mặn mà”
- Mắt nàng thăm thẳm như làn nước trong veo của mùa thu.
- Dự báo cuộc đời đau khổ sau này. (hoa ghen, liêu hờn).
- Tài năng Thúy Kiều
- Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
- “Thiên bạc mệnh” à dự báo tấn bi kịch” hồng nhan bạc mệnh.
3. Kết bài: Cảm nhận chung của em khi so sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều.
Bài mẫu 1: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”
Bài làm
Tôi nhớ có nhà văn từng nói:” nếu chọn nhà văn tiêu biểu cho từng nước, nước Anh sẽ không ngần ngại chọn Sechxpia, nước Pháp – Molie và nước Đức – Gớt”. Còn tôi, nếu có quyền được chọn, tôi sẽ không đắn đo nêu tên Nguyễn Du cùng kiệt tác Truyện Kiều. Đây là một trong những đỉnh cao chói ngời của nền văn học Việt Nam và nền văn học thế giới. Làm nên giá trị bất hủ này có nhiều nguyên nhân, song một điều không ai có thể phủ nhận là tài nghệ miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật sắc sảo đến mức các nhà viết tiểu thuyết hiện đại cũng khó lòng theo kịp. Nhân vật được nhà thơ miêu tả trước hết trong truyện là Thúy Vân, Thúy Kiều.
Truyện Kiều là tác phẩm truyện Nôm tiêu biểu nhất của văn học Trung đại Việt Nam. Truyện Kiều kể về một người con gái tài sắc nhưng có số phận bất hạnh là Vương Thúy Kiều. Tác phẩm truyện Kiều gồm có ba phần chính. Phần thứ nhất là đính ước và gặp gỡ. Trong phần đầu tiên, Nguyễn Du đã kể về Thúy Kiều, một người thiếu nữ tài sắc vẹn toàn, con gái đầu lòng trong gia đình trung lưu lương thiện, sống trong cảnh “êm đềm chướng rủ màn che, bên cạnh cha mẹ và hai em là Thúy Vân và Vương Quan. Ngay những dòng thơ đầu Nguyễn Du đã khắc họa lên bức chân dung chị em Thúy Kiều, Thúy Vân với những nét đẹp rất riêng.
Trước hết nhà thơ miêu tả nhân vật Thúy Vân và Thúy Kiều có những nét rất giống nhau.
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân
Mai cốt cách, tuyết tinh thần,
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười”
Nét giống nhau đầu tiên là hai chị em được so sánh với “hai ả tố nga”. Tố nga chỉ người con gái đẹp gợi cho người đọc liên tưởng đến vẻ đẹp của Hằng Nga trên cung trăng. Với bút pháp ẩn dụ ước lệ, nhà thơ còn nêu lên nét giống nhau ở vẻ bề ngoài và bên trong của hai chị em: “Mai cốt cát, thuyết tinh thần”. Nhắc đến mai là nói đến sự mảnh dẻ, thanh tao; nói đến tuyết là nói đến sự trong trắng, tinh khôi. Cả mai và tuyết đều rất đẹp. Tác giả đã ví vẻ đẹp thanh tao, trong trắng của hai chị em như là mai, là tuyết, đến mức độ “mười phân vẹn mười”. Như thế, nhan sắc của cả hai đều báo hiệu rằng: ẩn chứa trong đó là một tâm hồn đẹp đẽ, đằm thắm:
“Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai”
Tuổi tuy đã “tới tuần cập kê”, đến độ tuổi lấy chồng nhưng hai nàng sống rất kỉ cương, lễ giáo. Cuộc sống “Êm đềm tướng rủ mà che” đã nói lên tính tình thùy mị, nết na, tư thế đài các. Còn thái độ “Tường đông ông bướm đi về mặc ai” để thể hiện thái độ trang trọn, lễ giáo của người đẹp. Đây cũng là cách ngợi ca kín đáo của nhà thơ về tâm hồn và phẩm hạnh của hai chị em.
Tuy nhiên, Thúy Vân và Thúy Kiều có những nét rất khác nhau. Thúy Vân có một vẻ đẹp đoan trang, phúc hậu:
“Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Thúy Vân có một vẻ đẹp thanh tú với khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm. Miệng nàng cười như hoa nở, lời nói của nàng thốt ra từng từ tiếng cao qúy như ngọc. Thêm vào đó, mái tóc nàng đen mượt đến nỗi mây cũng chịu chào thua, làn da trắng mịn đến tuyết cũng phải nhường bước. Điểm xuất sắc trong nghệ thuật miêu tả của Nguyễn Du không chỉ dừng lại ở nét đẹp toát ra từ diện mạo bề ngoài mà qua đó còn nói lên được cả tính cách, thân phận của nhân vật. Với nét đẹp của khuôn mặt, làn tóc, nước da của Thúy Vân, người đọc còn thấy được tính cách đoan trang, phúc hậu, đồng thời còn cảm nhận được cuộc đời êm ả sau này của nàng.
Đến đây, thấy có sự khác biệt khi Nguyễn Du tả Thúy Vân và Thúy Kiều. Rõ ràng Nguyễn Du chỉ dùng bốn câu thơ ngắn gọn để miêu tả Thúy Vân còn Thúy Kiều thì dùng đến mười hai câu thơ. Tại sao có sự ưu ái hơn về số câu thơ dành cho Thúy Kiều? Điều này là sự cố ý hay chỉ là vô tình của Nguyễn Du? Thúy Kiều có gì hơn Thúy Vân không mà thoáng qua đầ thấy sự đặc biệt ở những câu thơ nói về Thúy Kiều. Đầu tiên nói về nhan sắc, vừa mở đầu phần thơ nói về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã có một sự so sánh khéo:
"Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn:
Làn thu thủy nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành.
Sấc đành đòi một tài dành họa hai.":
Đọc đến đây, chúng ta vô cùng thán phục nhà thơ vì chỉ cần mấy dòng mà như thể hiện lên một tuyệt thế giai nhân: một người con gái “sắc sảo, mặn mà”. Nét đẹp này được cụ thể hóa bằng hình ảnh “làm thu thủy”. Mắt nàng thăm thẳm như làn nước trong veo của mùa thu, nhưng cũng ẩn chứa nỗi buồn man mác. Lông mày của nàng uốn cong xinh đẹp như dáng núi mùa xuân; dung nhan đằm thắm đến nỗi hoa cũng phải ghen, dáng người tươi xinh đến mức liễu cũng phải hờn giận vì không sánh bằng. Một lần nữa, biên pháp tu từ ẩn dụ ước lệ lại trở nên sắc bén qua ngòi bút của Nguyễn Du. Nhà thơ chẳng những đã thành công khi miêu tả dung nhan của Thúy Kiều mà còn như báo trước được số phận đau khổ của nàng khi nêu lên chi tiết “hoa ghen, liễu hờn”, làm cho người đọc liên tưởng đến câu thơ ở phần mở đầu “Trời xanh quen thói má hồng đánh ghen”.
Điểm khác biệt nhất giữa Thúy Vân và Thúy Kiều là tài năng. Thúy Vân không được nói về tài năng, nhưng Thúy Kiều thì lại được mô tả khá nhiều:
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm.
Cung thường lầu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên Bạc mệnh lại càng não nhân.
Chẳng những có sắc đẹp tuyệt vời, Thúy Kiều còn là một cô gái thông minh và rất mực tài hoa. Tài năng của Kiều được giới thiệu lần lượt theo lối liệt kê; tài thơ, tài họa, tài đàn, tài hát ca … tài nào cũng siêu việt. Các cụm từ “vốn sẵn tính trời”, “pha nghề””, “đủ mùi”, “ăn đứt” … có tác dụng làm nổi bật tài năng của nàng đã đến độ đầy đủ và trọn vẹn. Ngoài ra Kiều còn sáng tác nhạc, một bài đàn ai oán “Thiên bạc mệnh” ai nghe cũng thấy buồn thảm đớn đau. “Bạc mệnh” là mạng số mong manh. Đây cũng là dự báo tấn bi kịch “hồng nhan bạc mệnh” không tránh khỏi suốt mười lăm năm lưu lạc chìm nổi của nàng vì “chữ tài chữ mệnh khéo là ghét nhau” và “Chữ tài liền với chữ tai một vần”.
Với các thủ pháp nghệ thuật tả người, nghệ thuật so sánh, phong cách sử dụng tiểu đối,… Nguyễn Du đã diễn tả được sự hoàn mĩ trong nhan sắc và cốt cách của Thúy Kiều, Thúy Vân. Cả vẻ đẹp lẫn tài năng nhân vật, tuy được vẽ ra rất khéo, bút pháp đa dạng (mỗi nhân vật có một cách vệ riêng) nhưng vẫn nằm trong khuôn khổ của nghệ thuật và tư tưởng thời trung đại, với những đường nét ước lệ, cao quý. Nhưng đáng chú ý là dụng ý của tác giả khi phân biệt nét khác nhau của hai nhân vật, hai số phận, nhấn mạnh nét này bỏ qua nét kia, làm hiện rõ hai bức chân dung, dự báo số phận về sau của hai người.
Cũng có thể nói, từ khi các nhân vật Truyện Kiều như Thúy Vân, Thúy Kiều … ra đời thì khó có thể tìm được nhưng hình ảnh xuất sắc như thế vì các nhân vật này đã trở thành điển hình của thời đại, của xã hội. Nét bút của Nguyễn Du, nghệ thuật miêu tả và khắc họa tính cách nhân vật của nhà thơ sẽ làm cho Truyện Kiều sống mãi trong lòng dân tộc Việt Nam và cả nhân loại.
Bài mẫu 2: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”
Bài làm
Chị em Thúy Kiều là đoạn trích nằm ở phần mở đầu Truyện Kiều của Nguyễn Du – nhà thơ nhân đạo xuất sắc cuối thế kỉ XVIII, đầu thế kỉ XIX. Tác phẩm có giá trị hiện thực và nhân đạo to lớn, đồng thời cũng là đỉnh cao nghệ thuật của thơ ca tiếng Việt, đặc biệt là nghệ thuật miêu tả nhân vật mà đoạn trích này là một ví dụ tiêu biểu.
Sau mấy câu tóm tắt về gia cảnh của vương viên ngoại, nhà thơ giới thiệu vẻ đẹp của chị em Thúy Kiều, Thúy Vân:
Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân…
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Bút pháp tả người trong đoạn trích này là bút pháp ước lệ thường thấy trong thơ văn cổ điển, lấy những nét đẹp của thiên nhiên để so sánh với vẻ đẹp của con người. Ở những nhà thơ khác, nếu theo cách tả này thì chân dung nhân vật thường chung chung, mờ nhạt. Song công thức ước lệ ấy dưới ngòi bút tài hoa, sáng tạo của Nguyễn Du lại biến hóa khôn lường, khiến cho nhân vật trở nên sinh động.
Nhà thơ giới thiệu chung về hai chị em Thúy Kiều bằng cách gọi trân trọng dành cho những người con gái đẹp: tố nga và khẳng định: Mai cốt cách, tuyết tinh thần, Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười. Cả hai đều có nhan sắc chim sa cá lặn. Hình dáng thanh tú, yểu điệu (mai cốt cách), tâm hồn trong trắng như sương, như tuyết (tuyết tinh thần).
Nguyễn Du rất kĩ lưỡng trong việc lựa chọn hình ảnh và từ ngữ để miêu tả. Thúy Vân hiện lên trước mắt người đọc với vẻ đẹp đài các, kiêu sa:
Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.
Gương mật Thúy Vân toát lên vẻ đẹp phúc hậu, tươi tắn, gợi sự đầy đủ, viên mãn. Nàng cười tươi như hoa nở, tiếng hói trong như tiếng ngọc rơi trên mâm vàng. Tóc nàng đen mướt đến mây cũng phải thua, da nàng trắng đến mức tuyết cũng phải nhường. Dường như Tạo hoá đã ban cho Thúy Vân rất nhiều đặc ân mà nàng vẫn không bị ai ganh ghét và đố kị. Vẻ đẹp tràn đầy sức sống ấy báo trước cuộc đời Thúy Vân sau này sẽ yên ổn, vinh hoa. Nàng sẽ được hưởng mọi điều sung sướng của một bậc mệnh phụ phu nhân.
Không phải ngẫu nhiên mà Nguyễn Du lại miêu tả Thúy Vân trước, Thúy Kiều sau. Chủ ý của nhà thơ là lấy vẻ đẹp của cô em làm nền cho vẻ đẹp của cô chị – nhân vật chính, vẻ đẹp của Thúy Vân trang trọng khác vời, tức là đạt tới mức cao nhất của nhan sắc mà Tạo hóa ban cho người phụ nữ; nhưng vẻ đẹp của Thúy Kiều lại đặc biệt ở chỗ là nó phá vỡ khuôn khổ thông thường từ trước tới nay.
Ngay từ câu đầu giới thiệu về Thúy Kiều, Nguyễn Du đã khẳng định:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc lại là phần hơn.
Thúy Vân đã đẹp khác người thường, Thúy Kiều lại hơn hẳn Vân cả tài lẫn sắc. Vẻ đẹp sắc sảo mặn mà của Thúy Kiều gây ấn tượng rất mạnh, ai được chiêm ngưỡng một lần ắt chẳng thể nào quên. Miêu tả Thúy Kiều, Nguyễn Du không đi vào chi tiết như tả Thúy Vân mà nhấn mạnh vào vẻ đẹp của đôi mắt – cửa sổ tâm hồn:
Làn thu thủy, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Mắt nàng long lanh như nước hồ mùa thu, lông mày thanh tú như dáng núi mùa xuân. Ẩn chứa trong đôi mắt ấy là một tâm hồn đa cảm khác thường. Nhan sắc của nàng nghiêng nước nghiêng thành, khiến hoa phải ghen vì thua thắm, liễu phải hờn vì kém xanh. Tác giả đã đem hết tài năng nghệ thuật và tình cảm mến yêu, khâm phục để tả Thúy Kiều nhưng ông cũng có ý hé lộ cho người đọc thấy dự cảm bất an về tương lai của nàng. Theo thuyết tài mệnh tương đối khá phổ biến trong dân gian thời ấy thì phàm cái gì tốt đẹp trên đời đều khó mà giữ được bền lâu. Thúy Kiều đẹp không ai sánh bằng, ắt nàng sẽ bị người đời ghen ghét và đày đọa.
Một điều đáng chú ý nữa là khi tả Thúy Vân, thi hào Nguyễn Du tuyệt nhiên không nhắc đến tài. Còn tả Thúy Kiều thì ông nhấn mạnh nàng là người tài sắc vẹn toàn:
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai.
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi họa, đủ mùi ca ngâm.
Cung thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Trong đời, hiếm có người con gái nào đa tài như Thúy Kiều, nhất là tài chơi hồ cầm của nàng thì không ai bì kịp. Có sắc, có tài, Thúy Kiều lại có thêm tâm hồn mẫn cảm lạ lùng. Dường như nàng linh cảm được về số phận bất hạnh của mình nên đã sáng tác cung đàn bạc mệnh mà ai nghe cũng phải não lòng:
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên “Bạc mệnh” lại càng não nhân.
Bốn câu thơ cuối đoạn, tác giả nhận xét chung về hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân và hoàn cảnh sống của họ:
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê.
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Những chi tiết trên chứng tỏ họ là con nhà nền nếp, được hưởng thụ một nền giáo dục đầy đủ và tốt đẹp; đồng thời khẳng định phẩm hạnh trong trắng, cao quý của chị em Thúy Kiều.
Đoạn trích chỉ có hai mươi bốn câu thơ nhưng đã cho chúng ta thấy được tài năng nghệ thuật tuyệt vời của Nguyễn Du. ông xứng đáng là bậc thầy về sử dụng thủ pháp ước lệ để miêu tả chân dung nhân vật. Mỗi nhân vật của ông có diện mạo riêng, tính cách riêng rõ nét.
Trong khi miêu tả vẻ đẹp chị em Thúy Kiều, tác giả bày tỏ tình thương yêu,trân trọng đối với con người; kín đáo khẳng định rằng một con người tài sắc vẹn toàn như Thúy Kiều xứng đáng được hưởng tình yêu và hạnh phúc. Sau này, cuộc đời nàng bị đoạ đày, bất hạnh, ấy là do tội ác của các thế lực đen tối gây ra. Đọc đoạn trích, chúng ta có thiện cảm với hai chị em Thúy Kiều và cùng với tác giả, chúng ta hãy dõi theo bước chân của họ trên đường đời vạn nẻo đầy chông gai, sóng gió.
Bài mẫu 3: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”
Bài làm
“Truyện Kiều” của Nguyễn Du hơn hai trăm năm qua đã chiếm một vị trí vô cùng quan trọng trong đời sống tinh thần của người dân Việt. Đặc biệt, những nhân vật trong Truyện Kiều còn đi vào đời sống một cách rất tự nhiên, tự bao giờ đã trở nên quen thuộc hiếm thấy. Chắc hẳn chẳng ai có thể quên được hình ảnh của hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân tài sắc mà ngay những câu thơ đầu của kiệt tác đã thể hiện rất rõ. Là hai chị em nhưng Thúy Vân và Thúy Kiều có số phận hoàn toàn khác nhau và Nguyễn Du đã ngầm dự báo điều này trong cách miêu tả tài sắc nơi hai chị em. Nếu so sánh tài sắc ở hai nàng, ta sẽ nhận ra những dự đoán hết sức tinh tế này.
Hai chị em Thúy Kiều, Thúy Vân được giới thiệu rất ngắn gọn nhưng đầy đủ:
“Đầu lòng hai ả tố nga,
Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần.
Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười.”
Những dòng đầu ngắn gọn đã gói trọn những thông tin cơ bản về hai nhân vật. Họ là hai chị em, được giới thiệu theo vai vế: “Thuý Kiều là chị, em là Thuý Vân”. Đồng thời, gợi mở về vẻ đẹp và cốt cách của họ. Người xưa coi cái nết là trọng, vì vậy, thông tin về vẻ đẹp tâm hồn của hai chị em được khái quát trước: một cốt cách thanh tao như mai, một tinh thần trong sạch như tuyết, không chỉ thể hiện tâm tư trong sáng của người thiếu nữ mà còn gợi lên vẻ đẹp quý phái. Còn về hương sắc thì “Mỗi người một vẻ, mười phân vẹn mười”. Hai chị em ai cũng xinh đẹp nết na, tuy mỗi người có vẻ đẹp khác nhau nhưng ai cũng là viên ngọc quý không tì vết.
Để làm rõ hơn những điều đã gợi mở về nhân vật như trên, Nguyễn Du đi vào miêu tả chân dung từng nhân vật một:
“Vân xem trang trọng khác vời,
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang.
Hoa cười, ngọc thốt, đoan trang,
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da.”
Đối với Thúy Vân, ông dùng từ “trang trọng”, chỉ một từ thôi mà làm cho người đọc thấy quý trọng vẻ đẹp quý phái, mang một hình dáng đường bệ mà không quá uy nghi. Từ này đi cùng từ “khác vời” càng làm tăng thêm vẻ trang nhã đài các của một tiểu thư cao quý. Ở Vân, những nét đẹp đều rất hài hòa, quả xứng danh “trang trọng”. Khuôn mặt đầy đặn sáng trăng tròn sáng lên vẻ đẹp phúc hậu, làn lông mày đậm, rõ nét đi kèm với từ “nở” như là một sự chuyển động linh hoạt của nét ngài, thật sống động. Nụ cười của nàng tươi như hoa, khi cười để lộ những hàm răng trắng muốt như ngọc như ngà, thật thùy mị đoan trang. Đặc biệt nàng có một mái tóc dài mượt mà, bồng bềnh đến mây cũng phải thua, một làn da trắng nõn nà đến tuyết cũng phải nhường. Vẻ đẹp của Thúy Vân được miêu tả vô cùng kĩ càng, mỗi đường nét hiện lên là thấy rõ sự hài hòa phúc hậu của khuôn mặt đầy đặn như trăng rằm, đó là một vẻ đẹp khiến cho thiên nhiên phải cúi mình nhún nhường. Dùng những biện pháp nhân hóa mây, tuyết, Nguyễn Du đã cho thấy rõ thái độ nâng niu, trân trọng, quý mến của thiên nhiên đối với nàng, cuộc đời nàng nhất định cũng được hưởng sự êm đềm quý trọng như chính nhan sắc của nàng!
Trong khi ấy, miêu tả Kiều, Nguyễn Du không đi vào miêu tả chân dung như là miêu tả Thúy Vân mà dường như chỉ là một vài đường gợi, nhưng hình dáng tuyệt sắc của người thiếu nữ vẫn hiện lên giữa thiên nhiên:
Kiều càng sắc sảo mặn mà,
So bề tài sắc vẫn là phần hơn.
Từ “càng” gợi mức độ tăng tiến đã cho thấy rõ dụng ý nghệ thuật của đại thi hào. Khi giới thiệu gia thế, giới thiệu chị trước em sau đúng như trật tự nhưng đi vào miêu tả lại miêu tả cô em trước. Vốn dĩ, Nguyễn Du miêu tả Thúy Vân chỉ là nền cho Thúy Kiều xuất hiện “càng sắc sảo mặn mà”. Vẻ đẹp của Vân chỉ dừng lại ở vẻ đẹp phúc hậu nên có ở một người thiếu nữ tuổi trăng tròn, vẻ đẹp trong sáng, thanh thoát, nhưng với Thúy Kiều, vẻ đẹp của nàng là một vẻ đẹp mặn mà, vô cùng sắc sảo, khôn ngoan, chữ dùng của đại thi hào đã gợi mở không chỉ một vẻ đẹp khiến cho người ta nghiêng mình mà còn có cả bóng dáng của tài năng sắc sảo, về tài về sắc hơn hẳn Vân
Làn thu thuỷ, nét xuân sơn,
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh.
Một hai nghiêng nước nghiêng thành,
Sắc đành đòi một, tài đành hoạ hai.
Trong bức tranh chân dung người thiếu nữ, chỉ là “làn”, là “nét” nhưng làm cho cả thiên nhiên xáo động. Đó là vẻ đẹp thanh thoát tươi mát của nước mùa thu nhưng lại tràn trề nhựa sống thanh tân của núi mùa xuân. Đó là một vẻ đẹp khiến cho thiên nhiên hùng vĩ cũng phải chịu thua thậm chí giận hờn vì không sánh bằng. Đã không còn là “nhường”, là “thua” như ở Thúy Vân, thiên nhiên thật dữ dội và mang đầy thách thức với “ghen”, với “hờn”. Và đây cũng chính là lời dự báo cho số phận sóng gió phía trước mà Kiều phải đối mặt bởi dung mạo xuất chúng vượt ra khỏi thiên nhiên vũ trụ của Kiều ắt phải chịu đọa đầy trong một xã hội mà lề thói cổ tục nặng nề.
Ở những câu thơ tiếp, hoàn toàn dành về tài của Thúy Kiều mà ở Thúy Vân không hề có;
Thông minh vốn sẵn tính trời,
Pha nghề thi hoạ đủ mùi ca ngâm.
Cung, thương làu bậc ngũ âm,
Nghề riêng ăn đứt Hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương,
Một thiên "Bạc mệnh" lại càng não nhân.
Trong các tài năng của Kiều, Nguyễn Du chọn một tài năng xuất chúng đó là “cầm”. Với xã hội phong kiến, tài đàn của người con gái chỉ đáng được coi là thứ bổ trợ cho đức hạnh chứ không được công nhận là tài năng thậm chí, con gái không nên có nhiều bi lụy mà đàn cầm thì hay bi lụy. Thế nhưng ở đây, Thúy Kiều không chỉ đàn giỏi, cái điều chỉ được coi là “nghề riêng” ấy lại “ăn đứt Hồ cầm một trương” lại có thể tự mình sáng tác như một nghệ sĩ thực thụ, tiếng đàn của nàng làm cho ai nấy đều phải rơi lệ, não lòng. Và đây cũng y như một dự đoán về số phận của người con gái đa sầu đa cảm này, cuộc đời nàng khó tránh kiếp “bạc mệnh”.
Những câu cuối chỉ là cuộc sống êm đềm của hai chị em hiện nay
Phong lưu rất mực hồng quần,
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ màn che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai.
Êm đềm là thế nhưng liệu rồi điều gì đang chờ các nàng ở phía trước?
Đoạn trích: “Chị em Thúy Kiều” đã cho ta thấy rõ tài năng bậc thầy trong nghệ thuật miêu tả chân dung nhân vật của Nguyễn Du. Không chỉ miêu tả vẻ đẹp của hai chị em mà qua đó còn bộc lộ cả tính cách, tài năng, số phận của hai nàng. Tuy là hai chị em đều xinh đẹp tuyệt trần nhưng là vẻ đẹp khác nhau và mang trong mình những báo trước về tính cách, số phận khác nhau.
Bài mẫu 4: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”
Bài làm
Nguyễn Du - một con người tài ba trong nền văn học nước nhà, là đại thi hào của dân tộc, là danh nhân văn hóa thế giới. Ông đã để lại cho thế hệ đời sau rất nhiều tác phẩm văn thơ nổi tiếng và mang giá trị nhân đạo sâu sắc. Trong số đó, ta phải nhắc đến "Truyện Kiều"- một tác phẩm mà không một người dân Việt Nam nào là không biết đến. Ông có những nét bút pháp điêu luyện trong từng câu thơ, câu văn của mình. Đúng vậy, đoạn trích "Chị em Thúy Kiều" đã lột tả được phần nào sự tài hoa của ông. Nguyễn Du đã miêu tả tài và sắc của hai chị em nhà Thúy Kiều đến đỉnh cao của nghệ thuật văn chương.
Trước khi miêu tả chi tiết về từng chị em nhà Thúy Kiều, tác giả đã chỉ ra trước những điểm chung trong vẻ đẹp của hai chị em:
"Đầu lòng hai ả tố nga,
Thúy Kiều là chị, em là Thúy Vân.
Mai cốt cách, tuyết tinh thần
Mỗi người một vẻ mười phân vẹn mười."
Tác giả đã giới thiệu Kiều là chị, còn cô em là Vân. Qua ngòi bút của Nguyễn Du, hình ảnh hai chị em Kiều như hiện lên trước mắt người đọc: Hai người con gái mang vẻ đẹp thanh cao, trong sáng thuần khiết "mai cốt cách", tâm hồn trong trắng như tuyết vậy. Bằng biện pháp ước lệ tượng trưng, ông nhấn mạnh vẻ đẹp của cả hai chị em toàn vẹn thế nào, thước đo giới hạn là mười thì vẻ đẹp của hai chị em nhà Kiều vẹn cả mười dù mỗi người có một nét đẹp riêng. Đến những câu thơ tiếp theo, tác giả tập trung miêu tả từng đối tượng một. Có phải có sự ẩn dụ gì khi tác giả giới thiệu người em trước người chị:
"Vân xem trang trọng khác vời
Khuôn trăng đầy đặn, nét ngài nở nang
Hoa cười ngọc thốt đoan trang
Mây thua nước tóc, tuyết nhường màu da."
Thúy Vân hiện lên mang hình dáng của một người con gái khuê các, cao sang được so sánh với những cái đẹp ở trong đời. Nguyễn Du tả thật chi tiết từ khuôn mặt cho đến giọng nói, dáng người. Vân có một khuôn mặt phúc hậu, tròn trịa được so sáng như vầng trăng, có đôi lông mày sắc nét "ngài nở nang". Vân mang vẻ đẹp phúc hậu khiến hoa nhìn thấy nàng cũng phải "cười", ngọc cũng phải thốt lên. Phải chăng ở đây tác giả muốn nói đến nụ cười của nàng đẹp như hoa, những lời nói nhẹ nhàng tròn đẹp như từng hòn ngọc vậy. Nàng có một làn tóc óng mượt hơn mây, đến mây cũng phải "thua" tóc của nàng, làn da thì trắng hơn tuyết. Tất cả những vẻ đẹp của Vân toát lên là sự đài các, kiều diễm, đoan trang, một vẻ đẹp hơn cả thiên nhiên nhưng vẫn giữ được nét hòa hợp với chúng, chúng yêu thương mà nhường nhịn vẻ đẹp phúc hậu ấy. Từ vẻ đẹp ấy, tác giả như dự báo trước cho cuộc đời của nàng là êm dịu, bình lặng, có một cuộc sống hạnh phúc.
Nếu chỉ có bốn câu tả Vân thì tác giả dành đến mười hai câu thơ mới có thể miêu tả hết vẻ đẹp nghiêng nước nghiêng thành, cũng như tài sắc của Thúy Kiều. Vẻ đẹp của Kiều hiện lên thật khiến con người ta sững sờ:
"Kiều càng sắc sảo mặn mà
So bề tài sắc lại là phần hơn
Làn thu thủy, nét xuân sơn
Hoa ghen thua thắm, liễu hờn kém xanh."
Hóa ra việc miêu tả Thúy Vân đều là dụng ý của tác giả, ông đã sử dụng rất thành công nghệ thuật đòn bẩy. Vân đã đẹp vậy rồi, tưởng chừng không ai có thể đẹp hơn được nữa thế mà nét đẹp của nàng sắc sảo hơn, mặn mà hơn, "so bề tài sắc" thì phần hơn là rất nhiều. Người ta nói "đôi mắt là cửa sổ của tâm hồn" Thúy Kiều mang một đôi mắt đẹp như dòng nước mùa thu dịu êm, lông mày dài đẹp mang "nét xuân sơn". Một vẻ đẹp toát lên mà khiến thiên nhiên ghen ghét: "hoa ghen, liễu hờn". Hoa tượng trưng cho vẻ đẹp sắc sảo, liễu thể hiện cho sự xanh tươi mát, chúng đều rất đẹp thế nhưng cũng chỉ đứng sau nàng Kiều. Không chỉ dừng lại ở việc miêu tả vẻ đẹp "nghiêng nước nghiêng thành" của Thúy Kiều tác giả còn đi sâu hơn về tài năng của nàng:
"Một hai nghiêng nước nghiêng thành
Sắc đành đòi một, tài đành họa hai
Thông minh vốn sẵn tính trời
Pha nghề thi họa đủ mùi ca ngâm
Cung thương làu bậc ngũ âm
Nghề riêng ăn đứt hồ cầm một trương.
Khúc nhà tay lựa nên chương
Một thiên "Bạc mệnh" lại càng não nhân"
Thúy Kiều không chỉ mang vẻ đẹp "quốc sắc thiên hương" mà còn mang trong mình đầy tài năng: Cầm, kì, thi, họa, tất cả cách kĩ năng đều điêu luyện. Tác giả đã sử dụng những từ ngữ rất mạnh để thể hiện điều đó như "đủ, làu, ăn đứt". Tài năng của Thúy Kiều dường như không có điểm dừng vậy, không chỉ giỏi ca hát, đánh đàn mà còn sáng tác cả nhạc nữa. Có thể thấy rằng vẻ đẹp kết hợp với tài năng của nàng đã đạt đến trình độ phi thường, vượt trên cả cái đẹp chuẩn mực - đó là thiên nhiên. Chính vì vậy, tác giả đã dự báo cho nàng một tương lai đầy sóng gió đau khổ, lận đận đường đời.
Những câu thơ cuối của đoạn trích, tác giả nhắc đến lối sống nề nếp của hai chị em. Hai chị em nhà họ Vương không chỉ có tài có sắc, mà còn có gia giáo, khuôn phép mẫu mực:
"Phong lưu rất mực hồng quần
Xuân xanh xấp xỉ tới tuần cập kê
Êm đềm trướng rủ man che,
Tường đông ong bướm đi về mặc ai."
Bằng những đường nét khắc họa kết hợp với nghệ thuật đòn bẩy, ta đã thấy rõ được từng vẻ đẹp của hai chị em nhà Thúy Kiều. Ta cũng cảm nhận được tấm lòng nhân đạo của nhà thơ đối với con người, đặc biệt là tấm lòng trân trọng, yêu thương cảm thông với những người phụ nữ tài sắc vẹn toàn như chị em Thúy Kiều.
Xem thêm bài viết khác
- Đề 1: Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh (chị) hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên
- Phân tích tác phẩm Hai đứa trẻ của Thạch Lam Phân tích Hai đứa trẻ của Thạch Lam
- Phân tích nhân vật Xuân tóc đỏ Phân tích nhân vật Xuân tóc đỏ trong Hạnh phúc của một tang gia
- Đề 3: Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
- Văn mẫu 11 bài viết số 2 đề 2: Hình ảnh người phụ nữ Việt Nam thời xưa qua các bài Bánh trôi nước, Tự tình (II) của Hồ Xuân Hương và Thương vợ của Tế Xương
- Bài văn: Nêu ý kiến của anh/chị về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ bài mẫu 1
- Đề 2: Anh (chị) hãy trình bày suy nghĩ của mình về “bệnh thành tích – một “căn bệnh” gây tác hại không nhỏ đối với sự phát triển của xã hội ta hiện nay
- Bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề tác giả Thân Nhân Trung đã nêu trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhân Tuât, niên hiệu Đại Bảo thứ ba - 1442: “Hiền tài là nguyên khí quốc gia”, nguyên khí thịnh thì thế nước mạnh, rồi lên cao, nguyên khí suy thì thế nước y
- Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù của Nguyễn Tuân
- Đề 3: Hãy phân tích tác hại của thái độ thiếu trung thực trong thi cử. Theo anh (chị) làm thế nào để khắc phục thái độ đó?
- Văn mẫu 11 bài viết số 2 đề 3: Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát...
- Văn mẫu 11 bài viết số 1 đề 1: Cuộc đấu tranh giữa thiện và ác, giữa người tốt và kẻ xấu qua truyện Tấm cám