Đề 3: Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Sau đây, KhoaHoc gửi đến bạn đọc những bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung bài gồm:
- Dàn ý chung
- Bài mẫu 1: Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
- Bài mẫu 2: Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
- Bài mẫu 3: Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
- Bài mẫu 4: Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
Dàn ý chung
1. Mở bài: Giới thiệu vẻ đẹp hình tượng người nông dân trong Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
2. Thân bài:
a. Hoàn cảnh sáng tác Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc
- Thực dân Pháp đánh chiếm thành Gia Định (1859)
- Phong trào vũ trang kháng Pháp bùng lên mạnh mẽ (Trương Định).
- Đêm rằm 16-12-1861, Bùi Quang Diệu chỉ huy 3 cánh quân tập kích đồn Tây Dương ở Cần Giuộc.
- Nghĩa quân chiếm được đồn địch, đốt nhà dạy đạo và đâm bị thương đồn trưởng Dumont, chém chết một số lính Mã tà, Ma ní.
- Pháp phải điều động tàu chiến nã đại bác từ sông Cần Giuộc để chiếm lại đồn.
- Phía nghĩa quân hi sinh 27 người.
b. Vẻ đẹp người nông dân
- Người nông dân Nam Bộ nghèo khó, “côi cút làm ăn”sống đời thầm lặng, cơ cực ở thôn ấp.
- Lòng căm thù, ghét cay ghét đắng trướng hình ảnh kẻ thù xâm chiếm đất nước ta.
- Lòng yêu nước cao độ.
- Tinh thần chiến đấu dũng cảm chống quân thù.
- Hi sinh anh dũng.
c. Nhận xét chung Văn Tế Nghĩa Sĩ Cần Giuộc
- Những người nghĩa sĩ vô danh vì “chết vinh hơn sống nhục”.
- Tượng đài của nhiều người của một tập thể anh hùng.
- Nguyễn Đình Chiểu là người sớm nhận thấy được khá rõ tinh thần chiến đấu dũng cảm của người nông dân.
3. Kết bài: Đánh giá chung về vẻ đẹp hình tượng người nông dân Văn Tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu.
Bài mẫu 1: Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
Bài làm
Trong văn học trung đại, do hạn chế về tư tưởng, những tác phẩm viết về người nông dân còn vô cùng hiếm hoi và chưa thực sự giành được nhiều thành công. Đến Nguyễn Đình Chiểu - ngọn cờ tiêu biểu của nền văn học yêu nước chống ngoại xâm đầu thế kỉ XX, ông đã rất thành công khi xây dựng hình tượng người nghĩa sĩ yêu nước trong tác phẩm Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc. Qua đây, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, vẻ đẹp người nông dân mới hiện lên trọn vẹn và sâu sắc.
Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc được tác giả viết sau đêm ngày 14 tháng 12 năm 1861, đêm những người nghĩa sĩ cần Giuộc tấn công vào đồn giặc: cuộc khởi nghĩa thất bại, 21 nghĩa sĩ đã hi sinh. Vói bài văn tế này, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, văn chương có cái nhìn tiến bộ, mới mẻ về hình ảnh người nghĩa sĩ nông dân. Nguyền Đình Chiếu đã khắc hoạ được một tượng đài nghệ thuật bất hủ “Vô tiền khoáng hậu” sừng sững trang trọng về người nông dân tương xứng với phẩm chất vốn có của họ ở ngoài đời – những người nông dân xây dựng và bảo vệ, đánh giặc cứu nước. Hình ảnh của những người nông dân là vấn đề trung tâm của bài văn tế, là đối tượng ngưỡng mộ, yêu mến, tiếc thương đồng thời cũng là linh hồn của tác phẩm. Có thể nói toàn bộ bài văn tế là ca khúc bi tráng về những người nghĩa sĩ nông dân xả thân vì đất nước tuy “thất thế” nhưng vẫn “hiên ngang”.
Người nông dân được tác già eiới thiệu trong tác phẩm là nhừng người nông dân hết sức bình thường vô danh. Tnrớc khi thực dân Pháp sang xâm lược, họ là nhừng người nông dân thuần tuý, chắt phác, cần cù, giản dị, cuộc đời nđièo khô, hiên lành, chịu thương chịu khó: “Cui cút làm ăn; toan lo nghèo khó”. Gánh nặng cuộc đời đè lên đôi vai nhỏ bé, gầy yếu của họ. Cả đời của họ đâu có ra khỏi lũy tre làng, chỉ quanh quẩn với những con trâu, với cánh đồng quê. Họ sống trong nền nông nghiệp lạc hậu, nghèo nàn giữa thế kỷ XIX: “chỉ biết mộng trâu”. Đặc biệt, ngay từ những dòng đầu tiên của bài văn tế, Nguyền Đình Chiểu đã khẳng định, ghi công những người nông dân ở khía cạnh mà bây lâu nay lịch sử chưa bao giờ thừa nhận: “Mười năm công vỡ lượng chưa chắc còn danh nỗi tợ phao”. Đó là công lao lao động và sản xuất của cải vật chất để duy trì và phát triển đời sống dân tộc. Một đất nước sống dựa vào nông nghiệp như Việt Nam thì lực lượng sản xuất chủ yếu là ai nếu không phải là nhừng người nông dân lam lũ, chịu thương chịu khó? Nhưng chưa khi nào lịch sử thừa nhận điều ấy. Ngợi ca sự phát triển của đất nước người ta chỉ hô tụng những bậc minh quân, thiên tử:
Đời vua Thái tô, Thái tông
Thóc lúa đầy đồng trâu chẳng buồn ăn,
Không ai nhắc đến những khổ cực một nắng hai sương, đầu tắt mặt tối của người dân lao động.
Những người nông dân, vẻ đẹp đầu tiên hiện lên từ họ là vẻ đẹp của những con người lao động âm thầm cống hiến, mang lại sự sống, sự phát triển cho hàng ngàn năm đất nước.
Cũng chính bởi sự chất phác, quanh năm “chỉ biết ruộng trâu” nên họ đâu biết gì về quân sự, về chiến đấu “Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung”, “mắt chưa từng ngó” những cung kiếm, đao gươm chiến đấu. Thế mà những con người như vậy khi thực dân Pháp xâm lược, họ phấp phổng lo âu trông mong vào triều đình đợi chờ lệnh chiến đấu. Bị vua quan bỏ rơi, họ đã dám một mình đứng lên chống lại kẻ thù, nhận lấy trách nhiệm cứu nước thiêng liêng một cách tự nguyện để bảo vệ độc lập: “Nào đợi ai đòi, ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình; chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ”.
Do đâu mà họ có sức mạnh, tinh thần tự nguyện ấy? Đó chỉ có thể là lòng yêu nước thiết tha máu thịt, lòng căm thù giặc khôn nguôi quyết không đội trời chung với chúng. Đã ba năm giặc tới xâm lược, mười tháng giặc đóng đồn “bòng bong che trắng lốp”, “ống khói chạy đen xì” người nông dân lòng đầy căm thù, “muốn tới ăn gan”, “muốn ra cắn cổ”. Chẳng thấy vua quan đâu, họ đã tự ý thức được sứ mệnh bảo vệ Tổ quốc mình, họ tự đứng lên đánh giặc chỉ với những trang bị vũ khí vô cùng thô sơ và thiếu thốn. Họ không phải là lính chính qui của triều đình, chưa từng được tập luyện, chưa được võ trang. Họ chiến đấu bằng những gì vẫn dùng trong sinh hoạt hàng ngày, trong sản xuất:
Ngoài cật có một manh ảo vải, nào đợi mamg bao tấu bầu ngòi; trong tay cầm một ngọn tâm vông, chỉ nài săm dao tu nón gõ.
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi (...) gươm đeo dung bằng lưỡi dao phay.
Những vũ khí thô sơ phải chống chọi với những vũ khí tối tân: “súng”, “tàu sắt”, ‘tàu đồng”, “đạn to”, “đạn nhỏ”; quả là trứng chọi với đá! Bù lại, những người lính nông dân có dũng khí, có lòng quả cảm vô song - một thứ vũ khí sắc bén nhất. Họ có tinh thần dám đánh, dám hi sinh của người nghĩa sĩ. Khi vào trận với những quân trang, vũ khí ấy, chắc chắn họ biết sẽ có hi sinh tổn thất nhưng không vì thế mà họ lùi bước, khuất phục. Ngược lại, tất cả xin “ra tay, ra sức”, dâng hết sức mình cho Tố quốc. Đó là một tấm lòng cao cả, một khí phách hiên ngang, là ý thức, trách nhiệm lớn lao với đất nước. Dù chỉ có vũ khí thô sơ nhưng những người nghĩa sĩ vẫn sẵn sàng ra trận, địch lại với những súng ống, tàu xe:
"Chi nhọc quan quản gióng trống kì, trong giục, đạp rào lướt tới coi giặc cũng như không; nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào liều mình như chẳng có.
Kẻ đâm ngang, người chém ngược, làm cho mã tà ma ní hồn kinh; bọn hè trước, lũ ở sau, trối kệ tàu thiếc, tàu đồng súng nổ.
Những nghĩa sĩ đã dũng cảm xông vào trận mạc, xả thân không chút mưu lợi đắn đo, tất cả họ đều tự nguyện: “nào đợi ai đòi, ai bắt”, “chẳng thèm trốn ngược, trốn xuôi”, “chuyến này dốc ra tay bộ hổ” dù với trang bị thô sơ. Nhưng hãy xem họ vào trận, bao nhiêu lời văn là bấy nhiêu chất hùng ca, hừng hực khí phách, rực lửa chiến đấu của một trận chiến quyết liệt, hào hùng. Hình tượng người nghĩa sĩ nông dân ở đây đã hiện lên thành một anh hùng lồng lộng giữa đất trời, giữa chiến trường. Hình ảnh ấy đã làm chủ trận chiến lớn lao mãnh liệt, nó áp đảo tất cả. Với những vũ khí thô sơ của mình, họ đã làm nên sức mạnh như vũ bão, hiếm có: “đạp rào lướt tới”, “xô cửa xông vào”, “đâm ngang”, “chém ngược”. Họ đã ghi được những chiến công oanh liệt như đốt nhà dạy đạo, chém đầu quan hai, làm giặc kinh hãi vô cùng “mã tà ma ní hồn kinh”. Cà đoàn văn là một bức tranh công đồn hào hùng tuyệt đẹp, gợi lên cảnh chiến đấu hào hùng mạnh mẽ, quyết chiến quên mình vì nước. Họ hi sinh với một quan niệm sống vô cùng cao đẹp ‘Thà chết vinh còn hơn sống nhục”, “thà chết đứng còn hơn sống quỳ”. Họ thà hi sinh còn hơn là phải sống với giặc, quyết không đội trời chung với giặc. Đó cũng chính là truyền thông tốt đẹp của dân tộc ta không bao giờ chịu khuất phục. Mặc dù họ đã mất đi nhưng nỗi lo “binh tướng nó hãy đóng sông Bến Nghé, ai làm nên bốn phía mây đen; ông cha ta còn ở đất Đồng Nai, ai cứu đặng một phường con đò”.
Với những lời văn hào sảng, khí thế, lần đầu tiên trong lịch sử văn học dân tộc, Nguyễn Đình Chiểu đã dựng lên một bức tranh công đồn hào hùng, anh dũng của người nông dân. Thật vậy, lịch sử không chỉ cố tình bỏ quên công lao dựng nước mà còn ấu trĩ vì hiếm khi nhắc đến vai trò giữ nước của những con người quả cảm ấy. Không có họ ngã xuống, tuôn máu, liệu có được những Bạch Đằng, liệu có những Chi Lăng... lẫy lừng vang dội? Nhưng những gì được ghi nhận chỉ còn là những cái tên tướng tên vua... ở một khía cạnh nào đó, lời than “Giãi thây trăm họ làm công một người” đã đúng khi nói về sự lãng quên đối với người nông dân nghĩa sĩ.
Sau trận đánh, một kết cục bi thảm đã diễn ra - kết cục đã được biết trước: Họ - những con người yêu nước - đã anh dũng hi sinh: “xác phàm vội bỏ”, “da ngựa bọc thây”. Cái chết nhẹ tựa lông hồng mà hiên ngang, lẫm liệt.
Ra đi, họ vẫn còn lo cho nước, cho dân, họ vẫn còn tiếp tục chiến đấu. Tình cảm thiêng liêng cảm động ấy còn theo họ đến tận chốn thiên đường đầy ánh sáng. Đọc những dòng văn như thế không ai nén nỗi rưng rưng, ngậm ngùi: “Sống đánh giặc thác cũng đánh giặc, linh hồn theo giúp cơ binh, muôn kiếp được trả thù kia”.
Họ không còn nữa nhưng ý chí của họ, tấm gương về họ vẫn còn mãi để nêu gương cho người sống, động viên cổ vũ mọi người tiếp tục chiến đấu để trả thù quân xâm lược. Những người nghĩa sĩ cần Giuộc, ta đã bắt gặp lại hình ảnh họ đâu đó nơi những chiến sĩ “năm mươi sáu ngày đêm khoét núi ngủ hầm mưa dầm cơm vắt. Gan không núng chí không sờn” làm nên trận Điện Biên Phủ lẫy lừng; hay những con người chống Mĩ quả cảm “Xẻ dọc Trường Sơn đi cứu nước / Mà lòng phơi phới dậy tương lai”,...
Người nghĩa sĩ nông dân cấp Giuộc đã mất đi song hình ảnh văn còn mãi mãi. Họ đà trở thành bất hủ, danh tiết của họ rạng rỡ muôn đời, tên tuổi họ trở thành bất tử. Họ là biểu tượng của chủ nghĩa anh hùng, chủ nghĩa yêu nước. Viết về những người nghĩa sĩ nông dân bỏ mình vì quê hương, đất nước, tác phẩm chứa đựng bao nỗi xót xa, thương cảm của tác giả. Lòng tiếc thương của tác giả thật vô hạn. Từ việc thương cho số phận của người nông dân “cui cút làm ăn” trong đời thường đến thương cho họ phải chết một cách oan uổng trong cuộc chiến đấu không cân sức. “Đoái sông cần Giuộc, cỏ cây mấy dặm sâu giăng; nhìn chợ Trường Bình, già trẻ hai hàng luỵ nhỏ”. Nhà thơ và tất cả mọi người đều khóc vì thương xót cho số phận người nghĩa sĩ. Không những thế nhà thơ còn xót thương cho những người còn sống: “Đau đớn bấy, mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều, não nùng thay, vợ yếu chạy tìm chồng, cơn bóng xé dật dờ trước ngõ”, đã thể hiện lòng thương tiếc của tác giả thật chân tình, tha thiết và cảm động. Ông còn chia sẻ nỗi đau với họ.
Với Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc, Nguyền Đình Chiểu đã bất tử hóa hình tượng người nông dân yêu nước chống giặc ngoại xâm. Ông đã xây dựng được bức tượng đài nghệ thuật bất hủ về người nghĩa sĩ nông dân hiên ngang, dũng cảm trong tác phẳm của mình. Bài văn tế như một cái mốc, một minh chứng về tấm lòng yêu nước, về phẩm chất của người nông dân lao động. Bài Văn tế nghĩa sĩ cần Giuộc của Nguyền Đình Chiểu xứng đáng là một “khúc ca của những người thất thế nhưng vẫn hiên ngang”. Nó xứng đáng là một khúc ca hùng tráng của nền văn học Việt Nam.
Bài mẫu 2: Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
Bài làm
Có thể nói, với bài văn tế này Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật đầu tiên về người nông dân nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là một hình tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng - bi thương mà hào hùng .
Người nông dân Việt Nam yêu nước chống ngoại xâm đã xuất hiện từ rất lâu, ít nhất cũng trên mười thế kỉ nay. Nhưng trong văn học, hình ảnh người nông dân ấy chỉ thực sự xuất hiện vào nửa cuối thế kỉ XIX với bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyền Đình Chiểu. Có thể nói, với bài văn tế này Nguyễn Đình Chiểu đã tạo nên bức tượng đài nghệ thuật đầu tiên về người nông dân nghĩa sĩ Việt Nam. Đó là một hình tượng rất đẹp, rất chân thực đầy tính bi tráng - bi thương mà hào hùng - đúng như cuộc chiến đấu mà nhân dân Việt Nam đã tiến hành suốt nửa sau thế kỉ XIX, vì cuộc sống, vì độc lập, tự chủ của Tổ quốc mình.
Tuy vậy, dù buồn thương, nhà thơ không bao giờ tuyệt vọng. Với niềm tin vào sức mạnh muôn đời của Tổ quốc, tin ở lòng yêu nước của những người dân ; dân lân bình dị và thiết tha, nhà thơ luôn luôn hướng về một tương lai tốt đẹp. Non sông rồi sẽ sạch bóng quân xâm lược, mối nhục mất nước rồi sẽ được rửa sạch làu làu:
Chừng nào Thánh đế ân soi thấu
Một trận mưa nhuần rửa núi sông.
(Ngóng gió đông)
Đó là một niềm tin cảm động và mạnh mẽ. Có lẽ trước Nguyền Đình Chiểu, chưa có một nhà thơ nào sáng tác với một ý thức rõ rệt như ông:
Chở bao nhiêu đạo thuyền không khẳm
Đâm mấy thằng gian bút chẳng tà.
Cái đạo của ông không là gì khác ngoài đạo yêu nước thương dân. Đó là nguồn gốc khiến thơ văn ông có sức rung cảm lớn, nguồn gốc đưa tên tuổi Nguyễn Đình Chiểu đứng vào vị trí vẻ vang trong nền văn học nước nhà.
Nguyễn Đình Chiểu đã rất có lí, rất sắc khi mở đầu khúc bi ca của mình:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền;
Lòng dân trời tỏ.
Quả là, qua cuộc chiến đấu này, qua cái thử thách khắc nghiệt này, bán chất trọn vẹn, tấm lòng yêu nước của những người nông dân bình thường này, vẻ đẹp thực sự của tâm hồn họ, mới được tỏ bày cùng trời đất. Trước đây, họ vẫn tồn tại, nhưng nào ai biết đến họ. Họ vẫn có đấy, sống đấy, nhưng sống trong thầm lặng của sự quên lãng. Nguyễn Đình Chiểu, với sự cảm thông cao độ, nhận ra rằng cuộc sống của họ đã từng vạt vả xiết bao:
Nhớ linh xưa:
Cui cút làm ăn,
Toan lo nghèo khó.
Bao nhiêu lượng thông tin chúa đựng trong tám tiếng ngắn ngủi ấy đã nói với chúng ta rất đầy đủ về tình cảnh của người nông dân cần Giuộc, người nông dân lục tính, cũng là người nông dân Việt Nam ngày đó. Bóng dáng của họ, nhỏ bé và cô đơn trong cuộc sống, cặm cụi, lầm lũi, lặng lẽ gập người trên những cánh đồng, oằn vai cam chịu bao nhiêu gánh nặng của cuộc sống, sự khắc nghiệt và những tai họa từ thiên nhiên, từ xã hội, như hiện lên rõ mồn một qua từng chữ. Tưởng như, chừng ấy lo toan vất vả cũng đã quá đủ đối với họ; tưởng như họ, những người nông dân vất vả ấy, chẳng còn có thể nghĩ gì thêm, lo toan gì thêm ngoài những “toan lo nghèo khó” vốn đã quá lớn lao ấy.
Thế mà không, quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, đã đến tận xóm làng, đã đến tận ngôi nhà của họ. Và, những con người đang cúi xuống ấy bỗng đứng phắt dậy, vươn vai, và họ chợt trở thành người khổng lồ như chú bé làng Gióng mày nghìn năm xưa khi chợt nghe lời truyền của sứ giả. Nhưng có một điều cơ bản rất khác xưa là tiếng rao truyền cứu nước không phải phát đi từ cung điện nhà vua mà đã được phát đi từ chính trái tim của những người nông dân Cần Giuộc. Nó chính là lòng căm thù giặc sục sôi vì hành động cướp nước:
Mùi tinh chiên vấy vá đã ba năm, ghét thói mọi như nhà nông ghét cỏ.
Bữa thấy bòng bòng che trắng lốp: muốn tới ăn gan;
Ngày xem ống khói chạy đen sì: muốn ra cắn cổ
Như một phản ứng hạt nhân tất yếu, lòng căm thù giặc cao độ đã làm nảy sinh một khát vọng cao độ: Khát vọng đánh giặc. Đó là một ước muốn hoàn toàn tự nhiên và cũng hoàn toàn tự nguyện:
Nào đợi ai đòi ai bắt, phen này xin ra sức đoạn kình;
Chẳng thèm trốn ngược trốn xuôi, chuyến này dốc ra tay bộ hổ.
Người nông dân của Nguyễn Đình Chiểu thật đã khác hoàn toàn với người nông dân chỉ trước đo không bao lâu “Bước chân xuống thuyền, nước mắt như mưa” khi phải sung làm lính đi biên thủ phương xa để bảo vệ cương thổ của nhà vua. Tự nguyện chiến đấu, ấy là nét bản chất nhất trong hành động của mọi người nghĩa sĩ thực sự. Phải chăng đó là sự tiếp tục giữa nghĩa sĩ Cần Giuộc đánh ngoại xâm với chàng tráng sĩ Lục Vân Tiên đánh cướp mà động cơ duy nhất:
Nhớ câu kiến ngãi bất vi
Làm người thế ấy cũng phi anh hùng.
Trong mọi việc nghĩa, không có việc nào lớn hơn việc cứu nước. Thấy việc nghĩa thì phải làm, làm một cách vô tư, không vụ lợi, không chần chừ, không cần đợi có đủ điều kiện mới làm. Đó là chỗ bi kịch của người nông dân Cần Giuộc, đó cũng là chỗ hùng ca của người nghĩa sĩ Gần Giuộc. Bi kịch vì:
Tiếng phong hạc phập phồng hơn mươi tháng,
Trông tin quan như trời hạn trông mưa.
Họ bắt đầu cuộc chiến đấu vào lúc lẽ ra triều đình phong kiến cùng quan quân của họ đã phải tiến hành cuộc chiến đấu ấy từ lâu nhưng lại “án binh bất động” một cách khó hiểu. Bi kịch còn cho họ là những người:
Chưa quen cung ngựa, đâu tới trường nhung
Chỉ biết ruộng trâu, ở trong làng bộ,
Việc cuốc, việc cày, việc bừa, việc cấy... tay vốn quen làm
Tập khiên, tập súng, tập mác, tập cờ... mắt chưa từng ngó
Bước vào chỗ sống chết của chiến trường mà những con người ấy chỉ mang theo những trang bị vừa đủ để làm những người cày ruộng. Trước giặc dữ là những tên lính nhà nghề vừa có đủ thứ “tàu thiếc tàu đông’', ‘‘đạn nhỏ đạn to", họ chỉ là những người nông dân không có kiến thức gì vê trận mạc, chỉ có “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”. Cuộc chiến đấu mới chênh lệch làm sao! Kết thúc cuộc chiến đấu ấy như thế nào thì đã rõ ràng rồi. Đó là tấn bi kịch của những người nghĩa sĩ Cần Giuộc, cũng là tấn bi kịch của cuộc sống nước ta vào thời kì nghiệt ngã ấy, tấn bi kịch đã đưa đến cái họa mất nước kéo dài cả thế kỉ.
Nhưng chính trong cái bi kịch ấy, bản hùng ca của cuộc sống đã cất lên. Hùng ca trước hết là ở sự ngoan cường của những con người quyết chiến thắng, vượt lên trên nỗi lo thất bại để chiến thắng, lấy tinh thần, xả thân vì nghĩa để bù đắp hết mọi sự thiếu hụt, chênh lệch của mình so với kẻ thù:
Chi nhọc quan quản gióng trống kì; trống giục, đạp rào lướt tới, coi giặc cũng như không;
Nào sợ thằng Tây bắn đạn nhỏ, đạn to, xô cửa xông vào, liều mình như chẳng có...
Bọn hè trước, lũ ó sau, trối kệ tàu thiếc tàu đồng súng nổ.
Thật là phấn chấn, thật là hào hùng, thật là hả dạ. Đúng là họ đã chiến đấu như những người lính tuyệt vời dũng cảm. Ở đây, sức mạnh tinh thần đã phát huy đến mức độ tối đa và trong chừng mực nào đó, đã tỏ rõ hiệu quả của nó trước sức mạnh của chiến thuật, của vũ khí, trang bị:
Hỏa mai đánh bằng rơm con cúi, cũng đốt xong nhà dạy đạo kia Gươm đeo dùng bằng lưỡi dao phay, cũng chém rớt đầu quan hai nọ.
... Kẻ đâm ngang người chém ngược, làm cho mã tà ma lí hồn kinh...
Trong văn chương Việt Nam, cho đến Nguyễn Đình Chiểu, quả chưa hề có một bức tranh hào hùng như thế về tư thế chiến đấu của người lính áo vải. Hình ảnh người nông dân ở đây là sự kết tinh và thăng hoa ở mức độ cao nhất những gì vốn là bản chất của họ. Trong những giây phút tuyệt vời ấy, người nông dân Cần Giuộc đã đi vào vĩnh cửu.
Quả Nguyền Đình Chiểu đã tạc nên một bức tượng đài của người nông dân - nghĩa sĩ Cần Giuộc. Nhưng đây không phải là tượng đài của một người, mà của nhiều người, của một tập thể anh hùng. Không có cái tập thể ấy, không làm sao có được sự hòa hợp tuyệt đẹp, cái khí thế bừng bừng áp đảo hiểm nghèo, áp đảo cái chết, với những “đạp rào lướt tới”, “xô của xang vào”, với những “kẻ đâm ngang, người chém ngược”, “bọn hè trước, lũ ó sau" như thế dược.
Bức tượng đài của Nguyễn Đình Chiểu chỉ có một tên gọi chung là “Nghĩa sĩ Cần Giuộc”, còn mỗi người nghĩa sĩ trên đó đều vô danh. Họ đã sống những cuộc đời của quần chúng vô danh và chết cái chết của quần chúng vô danh. Họ không hề tìm một điều gì cho riêng mình khi chiến đấu. Cái điều duy nhất họ gửi lại cho đòi, điều mà Nguyễn Đình Chiểu nêu lên như một tiêu chí chung bên dưới bức tượng đài của họ, ấy là cái triết lí sống này:
Chết vinh hơn sống nhục.
Thà thác mà đặng câu địch khái, về theo tổ phụ cũng vinh
Hơn còn mà chịu chữ đầu Tây, ở với man di rất khổ
Hoàn thành bức tượng đài của mình, Nguyễn Đình Chiểu đã để một phần cuối cho những lời ngợi ca, thương tiếc và thắp những nén hương kính trọng:
Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo, thương vì hai chữ thiên đàn Cây hương nghĩa sĩ thắp thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ
Cuộc tấn công của mấy chục nghĩa quân vào đồn cần Giuộc của thực dân Pháp năm 1863 là cuộc tấn công đầu tiến của quân dân Việt Nam mở đầu cho cuộc kháng chiến chống Pháp. Số lượng thiệt hại mà những nghĩa quân đã gây cho giặc có lẽ cũng không là bao nhiêu. Song, hiệu quả thực sự mà họ tạo nên cho cuộc kháng chiến, cho lịch sử dân tộc, bằng lòng yêu nước tha thiết và vô tư của họ, bằng tinh thần sẵn sàng chiến đấu, sự dũng cảm vô điều kiện và tuyệt vời của họ, thì to lớn vô cùng. Họ xứng đáng được tạc thành tượng đài để đi vào bất tử. Nhà thơ Nguyễn Đình Chiểu đã hoàn thành vẻ vang nhiệm vụ của người nghệ sĩ nhân dân khi tạc nên bức tượng đài ấy.
Bài mẫu 3: Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
Bài làm
Trong văn học, phải đến thế kỉ XIX khi Nguyễn Đình Chiểu – một nhà nho yêu nước dùng con mắt yêu thương và kính phục để viết nên “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” thì hình ảnh người nông dân mới thực sự xuất hiện. Đó là hình tượng đẹp, rất đỗi chân thực và đầy chất bi tráng, vừa hào hùng, vừa đau thương trong cuộc chiến đấu giành độc lập, tự do của đất nước.
Những người nông dân ấy, họ sinh ra đâu phải để làm chàng Gióng Phù Đổng, Lê Lợi, Quang Trung… Họ chỉ là những con người quanh năm khoác trên mình màu áo nâu của đất, bình dị và lam lũ. Nhưng họ xuất hiện trong khung cảnh bão táp của thời đại:
Hỡi ôi!
Súng giặc đất rền, lòng dân trời tỏ
Họ đâu đã quen nghi tiếng súng. Âm thanh ấy đã phá tan cuộc sống bình lặng của họ. Một cuộc sống từ sáng đến tối bán mặt cho đất, bán lưng cho trời, một cuộc sống chật vật với những lo toan nghèo khó. Cái nghèo đã làm họ thật nhỏ bé suốt ngày “cui cút làm ăn”.. Chỉ một câu văn, cụ Đồ Chiểu đã vẽ nên vòng đời luẩn quẩn không lối thoát của người dân Việt, người “dân ấp dân lân” Nam Bộ, bắt đầu với cui cút, vật lộn làm ăn để cuối cùng vẫn kết thúc trong nghèo khó. Đằng sau luỹ tre làng ấy, họ biết sao được những “cung ngựa”, “trường nhung”.. trong cái nhìn của họ chỉ có “con trâu là đầu cơ nghiệp”. Đến việc cuốc, việc cày, bừa, khiên đã quá quen thuộc thì giờ tập khiên, tập súng.. thật lạ lẫm.
Những tưởng họ mãi cam chịu như thế. Nhưng không, khi quân xâm lược đã xâm chiếm đất nước, chúng đang giày xéo lên từng mảnh ruống, từng đám đất quê hương ruột thịt của họ. Giờ đây, trong những “lo toan” không chỉ có đói nghèo mà còn là những thấp thỏm, lo âu:
“Tiếng phong hạc phập phồng hơn mười tháng, trông tin quan như trời hạn trông mưa…”
Thấy “mùi tinh chiên vấy vá” không thể chống mắt đứng nhìn, không thể ngồi yên mà đợi. Triều đình đã “bỏ rơi” họ, nhưng làm sao ngăn được tình yêu đất nước nồng nàn ở họ. Bọn xâm lăng kia đã cướp đi những gì máu thịt của họ, chúng phá vỡ giấc bình yêu nơi thôn quê, làm sao không căm cho được. Nỗi uất hận đển tột cùng ấy đã biến những con người nhỏ bé tầm thường thành chàng Gióng khổng lồ trong cổ tích. Khi Tổ quốc lầm than, họ không ngần ngại chung vai góp sức. Lòng yêu nước đã biến thành lòng căm thù giặc đến sôi sục:
“Bữa thấy bòng bong che trắng lốp, muốn tới ăn gan.
Ngày xem ống khói chạy đen sì muốn ra cắn cổ
Một mối xa thư đồ sộ, há để ai chém rắng đuổi hươu
Hai vầng nhật nguyệt chói loà, đâu dung lũ treo dê bán chó”
Lòng yêu Tổ quốc tha thiết xuất phát từ trái tim đã khiên họ trở nên đẹp đẽ, lấp lánh… Dòng máu Lạc Hồng cuộn chảy trong người cùng với cơn giận của lòng yêu nước mạnh hơn yếu hèn, mạnh hơn cái chết. Khát vọng đánh giặc, khát vọng chiến đấu, khát vọng bảo vệ mảnh đất quê hương đã thôi thúc họ, mặc việc “đợi tập rèn”, “ban võ nghệ”, “bày bố binh thư”, không màng tới trên mình chỉ có “một manh áo vải”. Các chàng Gióng của thế kỉ XIX đã đến, “đạp rào lướt tới”, coi giặc cũng như không.
Hỡi ôi, “một manh áo vải”, “một ngọn tầm vông”, chỉ có “lưỡi dao phay”, “rơm con cúi”, liệu có thể thắng được “tàu chiến tàu đồng”,” đạn nhỏ đạn to”. Đó là bi kịch của nghĩa sĩ Cần Giuộc hay chăng là tấn bi kịch của thời kì nghiệt ngã ấy. Họ là nông dân nhưng lại làm kinh ngạc cả chiến trường. Phải chăng cũng vì lẽ đó mà bản hùng ca đã cất lên trong tiếng nấc lòng. Có thể trận mạc đã vĩnh viễn cướp đi cuộc sống của họ, nhưng tinh thần xả thân vì nghĩa đã bù đắp cho sự thiếu hụt về lực lường, chênh lệch với kẻ thù
“Chi nhọc quan quản Gióng trống kì trống giục…. súng nổ”
Hình tượng của người nghĩa sĩ áo vải được khắc nổi trên cảnh u ám khói bom ấy: những âm thanh vang động (hè trước, ó sau…) những động tác quyết liệt (đốt, chém…). Những người nghĩa sĩ áo vải đã trở thành đấng anh hùng của một thời kì đáng nhớ. Trong tư thế quật cường ấy , lấp lánh chân dung của những con người gánh trên vai vận mệnh của non sông. Họ biết rằng mình chỉ là vô danh trong dân tộc anh hùng nhưng điều cao cả nhất họ để lại là triết lí sống phù hợp đến muôn đời:
“Thà thác mà đặng câu định khái, về theo tổ phụ cũng vinh, hơn còn mà c chịu chữ đầu Tây ở với man di rất khổ”
Tinh thần ấy, ý chí ấy vẫn chói lòa trong mỗi người dân Cần Giuộc. Sống để chịu nô lệ, tay sai của Tây thì thà một lần chiến đấu hết mình mà đem vinh quang cho dân tộc.
“Ôi thôi thôi!”
Một tiếng khóc đầy ai oán, tiếng khóc đến quặn lòng, tiếng khóc để tiễn biệt những người con Cần Giuộc mãi mãi nằm lại trên mảnh đất quê hương. Họ ngã xuống nới chiến trường khói lửa. Vẫn còn đó nghiệp nước chưa thành, thấp thoáng nơi đây bóng mẹ già với ngọn đèn le lói trong đêm
“Đau đơn bấy! Mẹ già ngồi khóc trẻ, ngọn đèn khuya leo lét trong lều! Vợ yếu chạy tìm chống, cơn bóng xế dật dờ trứơc ngõ”
Người tử sĩ đã về chốn thiên cổ để lại giữa trần gian mẹ già, vợ yếu, con thơ… Mai đây họ sẽ ra sao khi cái nghèo vẫn còn đeo đuổi, khi mà nợ nước trả chưa xong..
“Nước mắt anh hùng lau chẳng ráo thương vì hai chữ thiên dân, cây hương nghĩa sĩ thắp đèn thêm thơm, cám bởi một câu vương thổ”
Nguyễn Đình Chiểu đã bằng tấm lòng đồng cảm để nhìn thấy, nghe thấy và dựng nên một tượng đài hoành tráng mà mộc mạc, yêu thương. Xuyên suốt trong nền văn học nước nhà hình ảnh người nông dân đã được đề cập khá nhiều lần. Nhưng trước Đồ Chiều thì chưa một ai công khai vẽ lên và ngợi ca hình ảnh người anh hùng “chẳng qua là dân ấp dân lân mến nghĩa làm quân chiêu mộ”. Hơn thế nữa, việc thổi vào văn chương chất dân gian đã khiến “Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc” của cụ trở thành áng văn vừa hào hùng, bi tráng mà cũng rất gần gũi, giản dị.
Cụ Đồ Chiểu chỉ là nhà thơ mù – “người hát rong của nhân dân”. Nhưng hình ảnh người nông dân khởi nghĩa trong bài văn tế đã cho ta cái nhìn về cả một thời đại. Tự hào thay những con người nhỏ bé nhưng vẫn hiên ngang trước thế lực bạo tàn. Tự hào thay những người dân, người lính, nghĩa sĩ vô danh trùng trùng điệp điệp ngã xuống để bảo vệ sự toàn vẹn cho non sống. Họ là bức tượng đài bất tử, lưu mãi tới muôn đời.
Bài mẫu 4: Vẻ đẹp hình tạng người nông dân trong Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu
Bài làm
Một vẻ đẹp mang đậm chất bí ẩn của người nông dân. Những nỗi niềm sâu sắc, cực khổ gian nan, nhưng đó là những buồn vui và họ mang theo suốt cuộc đời, gắn bó với bao nắng mưa, mạnh mẽ đứng dậy đấu tranh chống thực dân xâm lược.
Hình ảnh những người nông dân luôn mang trong mình dòng máu dân tộc, tinh thần yêu nước sâu sắc, họ sẵn sàng đứng dậy tranh đấu cho dù có phải đánh đổi bằng chính mạng sống của mình. Tinh thần đó luôn vững vàng trong các cuộc kháng chiến chống ngoại xâm. Trong con người họ lúc bấy giờ không còn tồn tại thứ gọi là sợ hãi, mà thay vào đó là lòng căm thù mãnh liệt, chính những thứ ấy đã biến thành sức mạnh không gì có thể ngăn cản nổi. Vẻ đẹp người nông dân chất phác luôn mang sự đậm đà tính nhân dân và truyền thống dân tộc. Dù có bất cứ chuyện gì xảy ra, họ vẫn luôn mẫu mực, một lòng vì quê hương, đất nước. Tác giả Nguyễn Đình Chiểu đã thể hiện rõ nét lối sống con người nơi này và những nét đẹp trong họ. Họ là những con người giàu lòng nhân ái, thủy chung, giữ gìn nhân cách ngay thẳng, mạnh mẽ đấu tranh giành thắng lợi. Cho dù có gặp bất cứ chuyện gì đi chăng nữa, họ vẫn luôn tràn đầy sức mạnh tinh thần. Khi cuộc đấu tranh chống thực dân Pháp nổ ra, về tư tưởng đỉnh cao Nguyễn Đình Chiểu đã đáp ứng xuất sắc yêu cầu cuộc chiến đấu giữ gìn non sông đất nước. Một tinh thần anh dũng, kiên cường, sẵn sàng đương đầu với mọi chông gai, thử thách.
Mang trên mình những bộ quân trang rất thô sơ, mộc mạc, không được bảo vệ che chắn, nhưng hình ảnh người nông dân khoác lên mình tấm áo vải lại như chính những bộ áo giáp sắt giúp họ trong mọi cuộc chiến. Một thời đầy đau thương của ngay bản thân và đất nước, lòng căm thù trỗi dậy trong họ, biến nó thành mũi giáo sắc nhọn lao thẳng tới kẻ thù. Đã có rất nhiều những người anh hùng nghĩa sĩ đã vùng mình xả thân chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc để mang lại nền độc lập tự do cho dân tộc. Những hình ảnh đâm ngang chém ngược nói lên sự bản lĩnh nói lên sự bản lĩnh của người nông dân áo vải, đã hết lòng can trường trong trận chiến khốc liệt. Tác giả đã lên án sâu sắc tội ác của những kẻ xâm lăng gây ra biết bao đau thương, mất mát cho nhân dân ta. Đồng thời, cũng ca ngợi những sĩ phu yêu nước là những chiến sĩ kiên cường, giàu lòng yêu nước, vì đại nghĩa của dân tộc đã dám chống chọi lại chiếu chỉ của nhà vua, phất cao lá cờ khởi nghĩa cùng nhân dân chiến đấu đến hơi thở cuối cùng. Dưới ngọn cờ đó là đông đải những người nông dân nghèo khổ, suốt cuộc đời chỉ biết lo việc ruộng đồng. Ngay cả những khi rơi vào bước đường cùng họ cũng không hề quay lưng, trùn gối trước kẻ thù hung ác.
Những người nông dân mang một vẻ đẹp bình dị, thuần khiết, khiến biết bao con người phải hổ thẹn trước những hình ảnh cao đẹp ấy. Tấm lòng kiên trung, hiên ngang bất khuất như ngọn đuốc sáng rực. Hình ảnh người nông dân áo vải là đại diện cho tầm vóc của người anh hùng dân tộc, tinh thần yêu nước nồng nàn.
Với tài năng của mình, giặc Pháp nhiều lần mua chuộc Nguyễn Đình Chiểu, nhưng ông vẫn một lòng vì nước. Bút pháp trữ tình của ông xuất phát từ nhiệt huyết yêu nước nồng nàn chảy trong huyết quản, giàu lòng yêu thương con người, mang một màu sắc nồng đậm hơi thở cuộc sống mà đầy tính nhân văn. Nó không chỉ đẹp mà còn mang âm hưởng của sự thiêng liêng hoàn mĩ.
Lối sống của người dân Nam Bộ là cử chỉ, là nới có thể làm lung lay tâm hồn của người đối diện, tiếng nói mộc mạc, dịu dàng, bình dị với tâm hồn cháy bỏng. Đó là cách cư xử, cách trò chuyện một cách phóng khoáng, hồn nhiên, yêu đời. Người anh hùng áo vải đã hiến dâng cả cuộc đời mình cho đất nước, họ ngã xuống để lại một bầu trời u ám, không khí buồn bã đầy bi thương của những người ở lại. Đâu đó là hình ảnh mẹ già, là vợ hiền con thơ đang mong chờ họ quay trỏ về nhưng chờ hoài chẳng thấy, những giọt lệ chẳng kịp giấu giếm cứ trực tuôn trào, tiếng khóc thay cho những lời ai oán, thay cho những tiếc thương cho những số phận sống vì dân tộc, chết cho lịch sử. Bức tượng bất tử của những người nông dân nghĩa sĩ Cần Giuộc đã dũng cảm chiến đấu, hi sinh vì Tổ quốc. Một thành tựu xuất sắc chứa đựng chất trữ tình và lòng yêu nước nồng nàn.
Bài tế như một khúc khải hoàn ca ngợi những linh hồn cao đẹp đã ngã xuống của những người nông dân Nam Bộ. Tinh thần ấy như lan tỏa mạnh mẽ đến từng ngóc ngách trong tâm trí mỗi con người, là tấm gương sáng tỏ về tinh thần yêu nước mãnh liệt, là vẻ đẹp trong tâm hồn người lính áo vải chất phác, giản dị.
Xem thêm bài viết khác
- Đề 5: Theo anh (chị) làm thế nào để môi trường sống của chúng ta càng ngày càng xanh-sạch-đẹp
- Dàn ý phân tích cảnh cho chữ Phân tích cảnh cho chữ trong Chữ người tử tù
- Phân tích ý nghĩa nhan đề Hạnh phúc của một tang gia Ý nghĩa nhan đề Hạnh phúc của một tang gia
- Phân tích cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia Cảnh đám ma gương mẫu trong Hạnh phúc của một tang gia
- Đề 2: Bày tỏ ý kiến của mình về vấn đề mà tác giả Thân Nhân Trung đã nêu trong Bài kí đề danh tiến sĩ khoa Nhâm Tuất, niên hiệu Đại Bảo thứ ba – 1442: “Hiền tài là nguyên khí của quốc gia...
- Đề 1: Người xưa có câu: "Đàn bà chớ kể Thúy Vân, Thúy Kiều". Anh (chị) hãy nói rõ ý kiến của mình về quan niệm trên
- Bài văn: Nêu ý kiến của anh/chị về chủ đề của truyện ngắn Hai đứa trẻ bài mẫu 3
- Bài văn: Bàn về lợi ích và hứng thú của việc tự học bài mẫu 1
- Văn mẫu 11 bài viết số 2 đề 1: Cảm nghĩ của anh (chị) về giá trị hiện thực sâu sắc của đoạn trích "Vào phủ chúa Trinh"
- Học đại học có phải là con đường duy nhất dẫn đến thành công hay không? Nêu suy nghĩ của anh (Chị) về vấn đề đó.
- Đề 1: So sánh tài sắc của Thúy Vân và Thúy Kiều được thể hiện trong đoạn trích sau: “Đầu lòng hai ả tố nga… đi về mặc ai”.
- Văn mẫu 11 bài viết số 2 đề 3: Nhân cách nhà nho chân chính trong Bài ca ngắn đi trên bãi cát của Cao Bá Quát...