Phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến Phân tích Tây Tiến
Phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến hay cảm nhận khổ 1 Tây Tiến được giáo viên KhoaHoc biên soạn với sơ đồ phân tích, dàn ý chi tiết cùng những bài văn mẫu 12 hay chọn lọc nhằm hỗ trợ học sinh hoàn thiện yêu cầu đề bài.
Cảm nhận 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến
Sơ đồ Phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến
Dàn ý phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến
1. Mở bài
- Giới thiệu vài nét về tác giả, hoàn cảnh sáng tác bài thơ
- Tên thật: Bùi Đình Diệm (1921 – 1988), quê: Phượng Trì, Đan Phượng, Hà Tây.
- Bài thơ được viết vào năm 1948 ở Phù Lưu Chanh (Hà Tây), khi Quang Dũng đã chuyển về đơn vị khác và nhớ về đơn vị cũ là đoàn quân Tây Tiến.
- Dẫn dắt 14 câu thơ đầu: 14 câu thơ đầu là hình ảnh về núi rừng Tây Bắc hùng vĩ và những người lính anh dũng nhưng không kém phần tinh nghịch, hóm hỉnh.
2. Thân bài
- Kí ức về núi rừng Tây Bắc và đơn vị chiến đấu cũ
- Nỗi nhớ là cảm xúc chủ đạo xuyên suốt bài thơ, đoạn thơ. Nỗi nhớ ấy như dâng trào không gì có thể kiểm soát được nên đã cất lên thành tiếng gọi
- Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
- Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
- Từ láy “chơi vơi”: gợi hình, gợi cảm ⇒ nỗi nhớ da diết, cháy bỏng như có hình, có khối gợi lên một không gian bao la, thời gian sâu thẳm.
- Hình ảnh núi rừng trùng điệp, hoang sơ và con đường hành quân gian khổ của người lính
- Hình ảnh dốc, đèo, vực thẳm, rừng dày và con đường hành quân chênh vênh dần hiện ra
- Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
- Mường Lát hoa về trong đêm hơi
- Những địa danh: Sài Khao, Mường Lát gợi lên không gian hoang sơ nơi xứ lạ
- Cảm giác mệt mỏi của người lính như được xua đi bởi hình ảnh đầy thơ mộng trong đêm của Mường Lát.
- Câu thơ “Mường Lát hoa về trong đêm hơi”: tạo ra nhiều nét nghĩa khác nhau, trong đó có thể hiểu đây là cách tả cảnh đoàn quân đốt đuốc đi trong đêm mịt mù hơi sương trông như những bông hoa.
- Thanh bằng: gợi cảm giác lâng lâng, chơi vơi, tài hoa và lãng mạn. Khung cảnh núi rừng hiểm trở
- Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thăm
- Heo hút cồn mây súng ngửi trời
- Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
- Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
- Hai câu đầu: diễn tả độ cao ngất trời vào sự chênh vênh heo hút của núi đèo Tây Bắc.
- Từ láy tạo hình: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” …được sử dụng với mật độ cao
- Thủ pháp điệp từ, đối lập được khai thác triệt để
- “Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm”: nghe như tiếng thở nặng nhọc của người lính.
- Heo hút cồn mây súng ngửi trời: “ngửi”, “súng ngửi trời” được sử dụng rất bạo, có tính tinh nghịch thể hiện tâm hồn lạc quan yêu đời, thách thức với gian khổ, hiểm nguy của người lính
- Hai câu sau:
- Câu thứ ba có sự ngắt nhịp ở giữa như bẻ đôi ⇒ diễn tả hai sườn núi vút lên, đổ xuống gần như thẳng đứng
- Câu thơ thứ tư toàn thanh bằng ⇒ tạo cảm giác lâng lâng, chơi vơi
- Hai câu đầu: diễn tả độ cao ngất trời vào sự chênh vênh heo hút của núi đèo Tây Bắc.
- Hình ảnh người lính và kỉ niệm tình quân dân
- .Hai câu thơ
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
- Nối tiếp mạch cảm xúc về thiên nhiên Tây Bắc và hình ảnh người lính được hiện lên rõ hơn
- Tây Bắc dữ dội, hoang sơ, không chỉ được mở rộng ra theo chiều không gian: theo những địa danh xứ lạ như Sài Khao, Mường Lát mà còn được kéo dài theo chiều dài thời gian: chiều chiều, đêm đêm ⇒ dường như nơi đây chỉ có thác gầm và cọp thét suốt ngày đêm.
- .Hai câu thơ
3. Kết bài
- Nêu tóm gọn nội dung và nghệ thuật của 14 câu thơ đầu
- Hình ảnh núi rừng Tây Bắc hùng vĩ, đầy hiểm nguy nhưng cũng rất nên thơ
- Hình ảnh đoàn quân trên đường hành quân mang vẻ đẹp bi tráng.
- Gợi mở thêm vấn đề
Cảm nhận khổ 1 Tây Tiến
Tây Tiến được xem là đứa con đầu lòng tráng kiện và tài hoa của Quang Dũng và của cả nền thơ kháng chiến của văn học Việt Nam, đặc biệt là của những năm đầu trong cuộc kháng chiến chống Pháp gian khổ. Những chàng thư sinh áo trắng, rời bỏ bút mực xanh lên đường đi chiến đấu vì lòng yêu Tổ quốc, quê hương tha thiết, vì nền hòa bình của dân tộc, họ đi với trái tim kiêu hùng, anh dũng nhưng vẫn mang những nét lãng mạn, hào hoa của lớp trẻ tri thức Hà Nội. Điều ấy đã được nhà thơ Quang Dũng tái hiện một các xuất sắc trong bài thơ Tây Tiến bằng ngòi bút phóng khoáng, hồn hậu và rất mực tài hoa lãng mạng. Với khổ thơ đầu, nhà thơ đã hướng về nội tâm của người lính chiến, cũng chính là bản thân tác giả với những nỗi nhớ tha thiết miền đất Tây Bắc và vẻ đẹp vượt vượt lên khó khăn gian khổ của người lính Tây Tiến.
Bài thơ được viết năm 1948, lúc cuộc kháng chiến chống Pháp của quân và dân ta gặp muôn vàn khó khăn. Không những phải chiến đấu nơi rừng núi hiểm trở, người lính Tây Tiến còn phải đối diện với sự thiếu thốn về quân trang, quân dụng, lương thực và thuốc men. Thế nhưng, bằng tất cả sức mạnh của lý tưởng yêu nước, người lính đã kiên cường bám trụ địa bàn, sống lạc quan tin tưởng, hoàn thành xuất sắc nhiệm vụ dẫu có mất mát, hi sinh. Tất cả được Quang Dũng ghi nhận trong bài thơ vừa hào hùng vừa hết sức bi tráng.
Sự kết hợp giữa cảm hứng lãng mạn và bút pháp hiện thực đã tạo ra chất bi tráng rất đặc biệt cho 14 câu thơ đầu bài thơ, đem đến những màu sắc và âm hưởng mạnh mẽ, hào hùng cho sự hy sinh, mất mát của người chiến sĩ Tây Tiến. Cảm hứng chủ đạo của bài thơ là nỗi nhớ: nhớ đồng đội thân yêu, nhớ đoàn binh Tây Tiến, nhớ bản mường và núi rừng miền Tây, nhớ kỉ niệm đẹp một thời trận mạc… Bốn câu thơ đầu mở ra nỗi nhớ mênh mang:
“Sông mã xa rồi Tây Tiến ơi !
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi”.
Nói về nỗi nhớ ấy, bài thơ đã ghi lại hào khí lãng mạn của tuổi trẻ Việt Nam, của “bao chiến sĩ anh hùng” trong buổi đầu kháng chiến chống Pháp vô cùng gian khổ mà vinh quang. Hai câu thơ đầu nói lên nỗi nhớ, nhớ miền Tây, nhớ núi rừng, nhớ dòng sông Mã thương yêu.
Đã “xa rồi” nên nỗi nhớ không thể nào nguôi được, nhớ da diết đến quặn lòng, đó là nỗi nhớ “chơi vơi”. Tiếng gọi “Tây Tiến ơi” vang lên tha thiết như tiếng gọi người thân yêu. Từ cảm “ơi!” bắt vần với từ láy “chơi vơi” tạo nên âm hưởng câu thơ sâu lắng, bồi hồi, ngân dài, từ lòng người vọng vào thời gian năm tháng, lan rộng lan xa trong không gian. Hai chữ “xa rồi” như một tiếng thở dài đầy thương nhớ, hô ứng với điệp từ “nhớ” trong câu thơ thứ hai thể hiện một tâm tình đẹp của người chiến binh Tây Tiến đối với dòng sông Mã và núi rừng miền Tây. Sau tiếng gọi ấy, biết bao hoài niệm về một thời gian khổ hiện về trong tâm tưởng.
Những câu thơ tiếp theo nói về chặng đường hành quân đầy thử thách gian nan mà đoàn binh Tây Tiến từng nếm trải:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”.
Các tên bản, tên mường: Sài Khao, Mường Lát, Pha Luông, Mường Hịch, Mai Châu… được nhắc đến không chỉ gợi lên bao thương nhớ vơi đầy mà còn để lại nhiều ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang dã, thâm sơn cùng cốc,… Nó gợi trí tò mò và háo hức của những chàng trai “Từ thuở mang gươm đi giữ nước – Nghìn năm thương nhớ đất Thăng Long”. Đoàn binh hành quân trong sương mù giữa núi rừng trùng điệp
Bao núi cao, đèo cao, dốc thẳng dựng thành phía trước mà các chiến sĩ Tây Tiến phải vượt qua. Dốc lên thì “khúc khuỷu” gập ghềnh, dốc xuống thì “thăm thẳm” như dẫn đến vực sâu. Các từ láy: “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, “heo hút” đặc tả gian khổ, gian truân của nẻo đường hành quân chiến đấu: “Dốc lên khúc khuỷu, dốc thăm thẳm – Heo hút cồn mây súng ngửi trời!”. Đỉnh núi mù sương cao vút. Mũi súng của người chiến binh được nhân hóa tạo nên một hình ảnh: “súng ngửi trời” giàu chất thơ, mang vẻ đẹp cảm hứng lãng mạn, cho ta nhiều thi vị. Nó khẳng định chí khí và quyết tâm của người chiến sĩ chiếm lĩnh mọi tầm cao mà đi tới “Khó khăn nào cũng vượt qua – Kẻ thù nào cũng đánh thắng!”.
Thiên nhiên núi đèo xuất hiện như để thử thách lòng người: “ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống”. Hết lên lại xuống, xuống thấp lại lên cao, đèo nối đèo, dốc tiếp dốc, không dứt. Câu thơ được tạo thành hai vế tiểu đối: “Ngàn thước lên cao // ngàn thước xuống”, hình tượng thơ cân xứng hài hòa, cảnh tượng núi rừng hùng vĩ được đặc tả, thể hiện một ngòi bút đầy chất hào khí của nhà thơ – chiến sĩ.
Có cảnh đoàn quân đi trong mưa: “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”. Câu thơ được dệt bằng những thanh bằng liên tiếp, gợi tả, sự êm dịu, tươi mát trong tâm hồn những người lính trẻ, trong gian khổ vẫn lạc quan yêu đời. Trong màn mưa rừng, tầm nhìn của người chiến binh Tây Tiến vẫn hướng về những bản mường, những mái nhà dân hiền lành và yêu thương, nơi mà các anh sẽ đến, đem xương máu và lòng dũng cảm để bảo vệ và giữ gìn.
Gian khổ không chỉ là núi cao dốc thẳm, không chỉ là mưa lũ thác ngàn mà còn có tiếng gầm của cọp, beo nơi rừng thiêng nước độc, nơi đại ngàn hoang vu:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người”
“Chiều chiều…” rồi “đêm đêm” nhưng âm thanh ấy, “thác gầm thét”, “cọp trêu người”, luôn khẳng định cái bí mật, cái uy lực khủng khiếp ngàn đời của chốn rừng thiêng. Chất hào sảng trong thơ Quang Dũng là lấy ngoại cảnh núi rừng miền Tây hiểm nguy để tô đậm và khắc họa chí khí anh hùng của đoàn quân Tây Tiến. Mỗi vần thơ đã để lại trong tâm trí người đọc một ấn tượng: gian nan tột bậc mà cũng can trường tột bậc! Đoàn quân vẫn tiến bước, người nối người, băng lên phía trước. Uy lực thiên nhiên như bị giảm xuống và giá trị con người như được nâng cao hẳn lên một tầm vóc mới. Quang Dũng cũng nói đến sự hy sinh của đồng đội trên những chặng đường hành quân vô cùng gian khổ:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời…”
Hiện thực chiến tranh xưa nay vốn như thế! Sự hy sinh của người chiến sĩ là tất yếu. Xương máu đổ xuống để xây đài tự do. Vần thơ nói đến cái mất mát, hy sinh nhưng không chút bi luỵ, thảm thương.
Hai câu cuối đoạn thơ, cảm xúc bồi hồi tha thiết. Như lời nhắn gửi của một khúc tâm tình. Như tiếng hát của một bài ca hoài niệm, vừa bâng khuâng, vừa tự hào:
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
“Nhớ ôi!” tình cảm dạt dào, đó là tiếng lòng của các chiến sĩ Tây Tiến “đoàn binh không mọc tóc”. Câu thơ đậm đà tình quân dân. Hương vị bản mường với “cơm lên khói”, với “mùa em thơm nếp xôi” có bao giờ quên? Hai tiếng “mùa em” là một sáng tạo độc đáo về ngôn ngữ thi ca, nó hàm chứa bao tình thương nỗi nhớ, điệu thơ trở nên uyển chuyển, mềm mại, tình thơ trở nên ấm áp. Cũng nói về hương nếp, hương xôi, về “mùa em” và tình quân dân, sau này Chế Lan Viên viết trong bài “Tiếng hát con tàu”:
“Anh nắm tay em cuối mùa chiến dịch
Vắt xôi nuôi quân em giấu giữa rừng
Đất Tây Bắc tháng ngày không có lịch
Bữa xôi đầu còn tỏa nhớ mùi hương”
“Nhớ mùi hương”, nhớ “cơm lên khói”, nhớ “thơm nếp xôi” là nhớ hương vị núi rừng Tây Bắc, nhớ tình nghĩa, nhớ tấm lòng cao cả của đồng bào Tây Bắc thân yêu.
Qua 14 câu thơ đầu bài thơ Tây Tiến là một trong những bài thơ hay nhất viết về người lính trong 9 năm kháng chiến chống Pháp. Bức tranh thiên nhiên hoành tráng, trên đó nổi bật lên hình ảnh chiến sĩ can trường và lạc quan, đang dấn thân vào máu lửa với niềm kiêu hãnh “Chiến trường đi chẳng tiếc đời xanh…”. Đoạn thơ để lại một dấu ấn đẹp đẽ về thơ ca kháng chiến mà sự thành công, là kết hợp hài hoà giữa khuynh hướng sử thi và cảm hứng lãng mạn. Nửa thế hệ đã trôi qua, bài thơ “Tây Tiến” của Quang Dũng ngày một thêm ý nghĩa.
Phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến mẫu 1
Kháng chiến chống Pháp đã đi qua, nhưng qua những vần thơ, bài hát, chúng ta vẫn có thể cảm nhận được một quá khứ đau thương nhưng hào hùng của dân tộc. Quang Dũng với tác phẩm “Tây Tiến” đã đưa vào văn chương kháng chiến một luồng gió mới. Thông qua việc phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây Tiến, ta sẽ thấy được hình ảnh quả cảm, đau thương nhưng đầy mộng mơ của những người lính tri thức bấy giờ.
- Khái quát tác giả, tác phẩm
Quang Dũng thuộc lớp nhà thơ trưởng thành từ kháng chiến chống Pháp. Không chỉ viết thơ hay, ông còn được biết đến là một nghệ sĩ tài năng với khả năng viết văn, soạn nhạc, vẽ tranh. Sinh ra và lớn lên ở Hà Nội, tâm hồn nhà thơ vì thế cũng đầy mơ mộng. Cũng bởi thế mà thơ của ông phóng khoáng mà hồn hậu, lãng mạn và tài hoa.
Phân tích 14 câu đầu bài thơ Tây tiến dể thấy Tây Tiến là một đơn vị quân đội thành lập năm 1947, là là giai đoạn đầu của cuộc kháng chiến chống Pháp. Nghe theo tiếng gọi của Đảng, nhiều học sinh – sinh viên đã lên đường tham gia kháng chiến, phối hợp với bộ đội Lào bảo vệ biên giới Việt – Lào. Họ lên đường với tinh thần “Quyết tử cho Tổ quốc quyết sinh”. Trong quá trình chuyển sang đơn vị khác, Quang Dũng đã nhớ về Tây Tiến và sáng tác nên bài thơ này. Bài thơ được in trong tập thơ “Mây đầu ô” năm 1986. Ban đầu, bài thơ có nhan đề là “Nhớ Tây Tiến”, sau đó được đổi thành “Tây Tiến”. Việc bỏ từ “nhớ” đã giúp cho tâm tư, tình cảm của Quang Dũng trở nên kín đáo hơn.
- Luận điểm 1: Ký ức về núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến
Mở đầu bài thơ, Quang Dũng đã tập trung khắc hoạ lại núi rừng Tây Bắc và đoàn quân Tây Tiến. Điều đặc biệt là khung cảnh ấy hiện về trong ký ức của người lính trẻ:
“Sông Mã xa rồi Tây Tiến ơi!
Nhớ về rừng núi nhớ chơi vơi
Qua hồi ức của tác giả, hình ảnh “Sông Mã”, “Tây Tiến” giờ đây đều như trở thành những người thân thương ruột thịt. Mà với nơi đây, Quang Dũng dành trọn vẹn tình cảm nhớ thương của mình. Cụm từ “nhớ chơi vơi” gợi tả một nỗi nhớ rất lạ lùng. Đó là nỗi nhớ của những người lính đến từ phố thị xa hoa, nỗi nhớ làm tim như chững lại, chới với, không có điểm dừng. Nỗi nhớ ấy, vừa nhẹ nhàng, lại vừa mãnh liệt đến lạ. Dường như núi rừng Tây Bắc đã khắc sâu vào tâm hồn những người lính trẻ biết bao điều. Đó là những kỷ niệm không bao giờ quên trong suốt cuộc đời, và hơn cả, đó cũng là nỗi trống trải, lạc lõng, đậm nỗi nhớ và nỗi buồn man mác trong lòng thi sĩ Quang Dũng.
- Luận điểm 2: Hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính
Sau hai câu thơ đầu miêu tả nỗi nhớ, hình ảnh núi rừng Tây Bắc và con đường hành quân gian khổ của những người lính được miêu tả rõ nét. Qua ngòi bút tài hoa của Quang Dũng, không gian hiện lên đầy chất thơ:
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi.
Mường Lát hoa về trong đêm hơi.”
“Sài Khao”, “Mường Lát” đều là những địa danh gợi nhắc về địa bàn hoạt động của binh đoàn Tây Tiến. Nó càng làm nhân lên nỗi nhớ “chơi vơi” của tác giả với hình ảnh “sông Mã” ở đầu. Thế nhưng đến đây, không gian đã được mở rộng hơn, với nhiều chi tiết khơi gợi kỉ niệm hơn. Vùng núi Sài Khao sương giăng kín lối, dường như chôn lấp đi hình ảnh “đoàn quân mỏi” sau chặng đường dài. Cùng với sự “mỏi” sau chặng hành quân, ngọn đuốc hoa bập bùng trong đêm tối đều là những kỉ niệm khơi gợi và chứng minh nỗi nhớ vô cùng của tác giả. Quang Dũng đã sử dụng động từ “hoa về” thay vì “hoa nở”, “đêm hơi” chứ không phải “đêm sương”. Cách kết hợp từ này gợi tả không gian đầy trữ tình, huyền ảo, lung linh như không có thực. Giờ đây, nỗi nhớ của nhà thơ như dàn trải khắp không gian rộng lớn. Mỗi nơi mà nơi bước chân người lính đã đi qua, họ đều dành những tình cảm yêu thương đặc biệt, khiến chúng trở thành những kỷ niệm khắc sâu trong lòng mãi mãi không thể quên.
Tiếp theo những vẫn thơ trữ tình, Quang Dũng lại sử dụng các câu thơ mạnh hơn, gợi lên sự hiểm trở của núi rừng Tây Bắc. Qua đó cho thấy sự vất vả, khó khăn và những nỗ lực kiên cường của người lính khi hành quân chiến đấu:
“Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời.”
Sử dụng câu thơ toàn thanh trắc, tác giả đã gợi ra một địa hình vô cùng hiểm trở. Cùng với các từ láy “khúc khuỷu”, “thăm thẳm”, cái vất vả, khổ cực lại càng được nhân lên. Thế nhưng vượt lên cái khó khăn ấy, người lính vẫn luôn mang một tâm hồn lãng mạn. Hình ảnh nhân hóa “súng ngửi trời” hiện lên vô cùng thú vị. Nó đã thể hiện một tâm hồn lãng mạn, hồn nhiên và rất đỗi hài hước của người lính chiến trong hoàn cảnh chiến đấu nhiều khó khăn, thiếu thốn.
Câu thơ “Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi” lại gợi ra vẻ đẹp của sự sống, sự thi vị lãng mạn giữa núi rừng hoang vu. Sử dụng thanh bằng cùng hình ảnh “mưa xa khơi”, Quang Dũng gợi lên sự bình yên, ấm áp. Đây chính là chốn dừng chân cho người lính sau những ngày hành quân vất vả, khổ cực.
- Luận điểm 3: Hình ảnh người lính và kỉ niệm tình quân dân
Sau những vần thơ tả cảnh, Quang Dũng viết lên những câu thơ đặc tả người lính, ám ảnh và khắc sâu vào tâm trí độc giả:
“Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời.”
Chỉ với hai câu thơ, tác giả đã lột tả được cái khắc nghiệt của chiến tranh, và cũng trân trọng sự hy sinh cao cả của người lính chiến. Họ đã ra đi, trong tư thế hiên ngang, oai hùng, sẵn sàng xả thân vì Tổ quốc. Chỉ là “bỏ quên đời” thôi, ra đi thanh thản, nhẹ nhàng, “không bước nữa”, chứ không hề nuối tiếc điều gì. Họ đã chiến đấu và hi sinh trong tư thế ngẩng cao của nòng súng, rồi trở về với đất Mẹ thiêng liêng lại rất đỗi bình thản.
Chứng kiến những người đồng đội chiến đấu, rồi ngã xuống, Quang Dũng không khỏi xót xa. Ông thương cảm nhưng cũng khâm phục tinh thần hi sinh của những con người dũng cảm ấy:
“Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi.”
Câu thơ đặc tả vẻ oai linh, hùng vĩ của núi rừng Tây Bắc với kết cấu thơ tân kỳ và các động từ mạnh “gầm”, “trêu”,… đã làm nổi bật sự nguy hiểm tột độ. Đó là cái nguy hiểm luôn rình rập nơi rừng thiêng nước độc của ác thú, của thiên nhiên với thác xối, núi nhọn. Để rồi cuối cùng, nhà thơ như bừng tỉnh khỏi những kỉ niệm của mình. Những hồi ức đó, ngỡ như đang được sống lại, thì vỡ vụn với nỗi nhớ da diết, nồng nàn “cơm lên khói” “thơm nếp xôi”. Tình quân dân tha thiết, ấm nồng với hương lửa, nắm xôi, những ngày còn chiến đấu cứ ám ảnh mãi không thôi. Sau tất cả, con người và tình cảm quân dân luôn là nỗi nhớ đọng lại nơi người lính, là chút nương tựa của tâm hồn họ mỗi khi mỏi mệt, gian nan.
Kết bài
Chỉ với 14 câu thơ, Quang Dũng đã khắc hoạ được thiên nhiên Tây Bắc với đầy đủ sắc thái khác nhau. Từ đó làm nổi bật hình tượng người lính Tây Tiến nói riêng và những người lính trẻ nói chung. Họ sẵn sàng từ bỏ ánh điện phố thị, buông bút nơi giảng đường để cầm súng chiến đấu. Dù khó khăn, gian khổ chất chồng thì sự quyết tâm, tinh thần lạc quan và tâm hồn mơ mộng vẫn không hề vơi bớt.
Phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến mẫu 2
Quang Dũng là một nghệ sĩ đa tài làm thơ, viết văn, vẽ tranh, soạn nhạc. Ông là nhà thơ trưởng thành trong cuộc kháng chiến chống Pháp. Thơ Quang Dũng chiếm lĩnh tâm hồn người đọc bởi tâm hồn lịch lãm, lãng mạn, tài hoa, phóng khoáng và rất đỗi hồn hậu. Bài thơ Tây Tiến là một trong những tác phẩm tiêu biểu phải kể đến của ông. Với 14 câu thơ đầu, cùng sự kết hợp hiện thực với lãng mạn, Quang Dũng dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hung vĩ, dữ dội trong nỗi nhớ miên man đầy ắp của người lính Tây Tiến.
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây, súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao, ngàn thước xuống
Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời!
Chiều chiều oai linh thác gầm thét
Đêm đêm Mường Hịch cọp trêu người
Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Bài thơ sáng tác tại Phù Lưu Chanh vào năm 1948 khi Quang Dũng đã chuyển đơn vị. Nhưng những ngày tháng Quang Dũng chiến đấu, sống ở đoàn quân Tây Tiến chưa lâu, với những kỷ niệm khó quên nên nỗi nhớ Tây Tiến da diết, cồn cào trong lòng tác giả. Toàn bài thơ là một nỗi nhớ. Tác giả nhớ về cuộc sống gian khổ, nhớ về kỷ niệm những đêm liên hoan, về cái âm u, hoang dã của rừng núi và in đậm nhất là nỗi nhớ của người lính Tây Tiến.
Bài thơ mở đầu bằng một lời gọi tha thiết:
“Sông Mã xa rồi Tây tiến ơi!
Nhớ về rừng núi, nhớ chơi vơi
"Tây Tiến ơi" như chứa đựng cả một bầu trời thương nhớ với bao bâng khuâng hụt hẫng và nuối tiếc. Dường như dòng cảm xúc không thể kìm nén mà đã bật lên thành nỗi nhớ. Điệp từ “nhớ” như hai nốt nhấn khiến câu thơ đong đầy nỗi nhớ cháy bỏng, da diết đến quặn lòng. “Nhớ rừng núi” nhớ về thiên nhiên Tây Bắc, nhớ con đường hành quân cũng là nhớ về Tây Bắc. Hai từ “chơi vơi” khiến ta có cảm giác bồng bềnh, huyền ảo lơ lửng. dường như nỗi nhớ xóa nhòa khoảng cách thời gian, không gian, đưa con người đắm vào quá khứ, sống với kỉ niệm. Từ nỗi nhớ của Quang Dũng khiến ta nhớ đến nỗi nhớ của nhân vật trữ tình trong câu ca dao:
“Nhớ ai bổi hổi bồi hồi
Như đứng đống lửa, như ngồi đống than”
Nỗi nhớ trong ca dao là nỗi nhớ của tình yêu, nhớ đến đỏ lòng sốt ruột, còn nỗi nhớ của Quang Dũng là nỗi nhớ dành cho đồng đội cứ chảy trôi đến vô chừng. Từ nỗi nhớ ấy, bức tranh thiên nhiên núi rừng Tây Bắc hùng vĩ hoang sơ cứ dần dần hiện ra.
“Sài Khao sương lấp đoàn quân mỏi
Mường Lát hoa về trong đêm hơi”
Tác giả liệt kê các địa danh “Sài Khao, Mường Lát” không chỉ gợi bao cảm xúc nhớ thương mà còn tạo ấn tượng về sự xa xôi, heo hút, hoang vu, bí ẩn, của những vùng đất lạ, chứa đựng nhiều khó khăn, thử thách ý chí con người. những hình ảnh tả thực “sương lấp”, “đoàn quân mỏi” khiến ta như đang chứng kiến cảnh các chiến sĩ Tây Bắc đang phải vất vả hành quân trong đem sương giá lạnh. Sương giăng che lấp cả đoàn quân. Chữ “mỏi” nói lên bao gian khó mà người lính đã trải qua. Đằng sau những gian khổ vất vả ấy là hình ảnh “hoa về trong đêm hơi” thật đẹp, vừa khắc họa vẻ thơ mộng của người lính vừa gợi tả nét lạc quan ở những người lính trẻ và chất lãng mạn trong hồn thơ của Quang Dũng.
Dốc lên khúc khuỷu dốc thăm thẳm
Heo hút cồn mây súng ngửi trời
Ngàn thước lên cao ngàn thước xuống
Giọng thơ bỗng trở nên gần gũi, dồn dập góp phần nhấn mạnh vào một địa thế hiểm trở đồng thời giúp người đọc cảm nhận được bước chân chắc nịch của người lính hằn in trên sỏi đá. Một loạt những từ láy giàu chất tạo hình "thăm thẳm", "khúc khuỷu", "heo hút" mở ra trước mắt người đọc bức tranh thiên nhiên Tây Bắc hùng vĩ, hiểm trở, núi non trùng trùng điệp điệp. Hình ảnh “sung ngửi trời” được tác giả nhan hóa thật thú vị, vừa tả độ cao của núi, của dốc như cao đến tận trời vừa thể hiện nét tinh nghịch, đậm chất lính của Quang Dũng.
“Nhà ai Pha Luông mưa xa khơi”
Hình ảnh mở ra một không gian xa rộng. Người lính tạm dừng chân bên dốc núi, phóng tầm mắt ra xa. Trong màn mưa giăng mịt mù, những ngôi nhà sàn của người dân tộc như bồng bềnh ẩn hiện. Một loạt thanh bằng như gợi tả niềm vui, một chút bình yên trong tâm hồn người lính.
Tiếp tục trong dòng chảy cảm xúc của Quang Dũng người đọc nhận ra giữa không gian núi rừng heo hút, giữa cái thăm thẳm của chốn đại ngàn vẫn hiện lên vẻ đẹp chân dung người lính Tây Tiến:
Anh bạn dãi dầu không bước nữa
Gục lên súng mũ bỏ quên đời
Biết bao khó khăn gian khổ của lính Tây Tiến được Quang Dũng dồn nén vào chữ "dãi dầu" thể hiện sự từng trải, nám sạm nắng mưa dạn dày sương gió, tư thế phớt lờ, coi thường hiểm nguy coi thường cái chết. Thì ra đó là những chàng trai giàu đức hi sinh, coi cái chết nhẹ tựa lông hồng chỉ như là khoảnh khắc thiếp đi vì mệt mỏi mà thôi.
“Nhớ ôi Tây Tiến cơm lên khói
Mai Châu mùa em thơm nếp xôi”
Giữa bao gian khổ khó khăn, thử thách khắc nghiệt đã thành ấn tượng thì niềm vui dù ít ỏi thì càng đáng nhớ hơn. Khói bếp, mùi thơm cơm nếp gợi cái ấm cúng của cuộc sống thanh bình, hạnh phúc. Nỗi nhớ “chơi vơi” đã được lên thành “nhớ ôi Tây Tiến” – một nỗi nhớ sâu đậm chỉ có ở những con người sống tình nghĩa, chân thật.
Tóm lại, qua 14 câu thơ đầu, với sự kết hợp hiện thực với lãng mạn, Quang Dũng dựng lại cảnh núi rừng Tây Bắc hung vĩ, dữ dội trong nỗi nhớ miên man đầy ắp của người lính Tây Tiến. Đoàn quân Tây Tiến đã vượt qua những chặng đường dài vô cùng gian khổ, có mất mát, hi sinh nhưng vẫn ánh lên niềm tin, nét trẻ trung, kiêu hãnh.
Phân tích 14 câu đầu bài Tây Tiến được Khoahoc chia sẻ trên đây. Hy vọng với bài văn mẫu này sẽ giúp ích cho các em có thêm tài liệu tham khảo, trau dồi thêm kỹ năng viết bài, qua đó hoàn thiện bài văn của mình hay hơn, sinh động hơn. Chúc các em học tốt, ngoài ra các em có thể tham khảo thêm các môn học khác tại tài liệu học tập lớp 12 này nhé