Phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao
Phần tham khảo, mở rộng
Câu 1: Phân tích tác phẩm Chí Phèo của nhà văn Nam Cao - ngữ văn 11
Bài làm:
Vấn đề số phận con người, về những bi kịch đày đọa đến cùng cực đã trở thành một đề tài quen thuộc trong các sáng tác của nhà văn Nam Cao. Với ngòi bút phản ánh hiện thực sâu sắc, khai thác tấn bi kịch tinh thần của những kiếp đời “chết ngay trong lúc sống”, Nam Cao đã để lại cho người đời sau những kiệt tác như Đời thừa, Sống mòn, Một bữa no... Trong đó, không thể nào không nhắc đến “Chí Phèo” – một sáng tác được xem là kết tinh của thực trạng nhân phẩm bị hủy hoại đến tàn khốc, của nỗi đau khôn nguôi ở kiếp người.
Về nội dung, Chí Phèo là truyện ngắn nổi tiếng xoay quanh cuộc đời của một nhân vật chính cùng tên. Toàn bộ tác phẩm khắc họa quá trình tha hóa nhân phẩm, quá trịn trượt dài lương thiện của Chí. Xuất phát điểm là một anh nông dân hiền lành, chỉ biết cuốc mướn làm thuê với ước mơ giản dị: “Hình như một thời hắn đã ao ước có một gia đình nho nhỏ. Chồng cuốc mướn cày thuê, vợ dệt vải. Chúng lại bỏ một con lợn nuôi để làm vốn liếng. Khá giả thì mua dăm ba sào ruộng làm.” Rồi dưới xã hội “quần ngư tranh thực” ấy, anh nông dân kia rơi vào con đường tha hóa, bần cùng hóa để trở thành một tên chuyên rạch mặt ăn vạ, một con quỷ dữ của làng Vũ Đại. Nam Cao đã chú trọng phơi bày mâu thuẫn giai cấp, phơi bày bộ mặt kinh tởm của những người đã gây ra cho đời một thung lũng đau thương nhuộm đầy máu và nước mắt. Lí Kiến là “một con hổ biết cười”, một con rắn đầy nọc độc, bản chất thối tha, dâm đãng, háo sắc, thủ đoạn mưu mô “mềm nắn, rắng buông”, “thứ nhất sợ kẻ anh hùng, thứ hai sợ kẻ cố cùng liều thân”, “hãy ngấm ngầm đẩy người ta xuống sông nhưng rồi lại dắt nó lên để nó đền ơn”…
Ta thấy ở tác phẩm, thông qua việc khắc họa nhân vật, đặc biệt là Chí Phèo, Nam Cao đã thể hiện được giá trị hiện thực và giá trị nhân đạo sâu sắc. Chí Phèo là đại diện tiêu biểu cho hình ảnh người nông dân trước cách mạng tháng Tám. Nhân vật này được xây dựng trên những đặc điểm tính cách tiêu biểu: hiền lành, thật thà; chăm chỉ, cần cù; thiết tha lương thiện nhưng cuối cùng lại bị cự tuyệt quyền làm người một cách đau đớn. Chí ngật ngưỡng bước ra trang sách bằng tiếng chửi “hắn vừa đi vừa chửi”, bằng bi kịch của một đứa con hoang bị bỏ rơi bên cạnh chiếc lò gạch cũ để phải cam chịu cảnh tủi nhục “hết lang thang đi ở cho nhà người này lại đi ở cho nhà người khác, năm hai mươi tuổi thì làm canh điển cho nhà Bá Kiến”, bằng những lần rạch mặt ăn vạ… để rồi nhờ Thị mà thức tỉnh và cũng chính sự thức tỉnh ấy dẫn đến hành động trả thù, đem đến một kết quả thương tâm: Ý thức lương thiện trỗi dậy trong hoàn cảnh bi kịch và khi ý thức ấy hồi sinh mạnh mẽ thì sinh mạng con người phải mất đi.
Sự kiện có tính chất tạo và chuyển biến tâm lí của nhân vật Chí Phèo là sự xuất hiện của Thị Nở. Tuy nhiên, Nam Cao không miêu tả sự xuất hiện ấy một cách ngọt ngào cũng không ưu ái cho cuộc tình kia một cái cục đẹp, một giấc mơ hạnh phúc đền trả cho những con người bất hạnh. Nam Cao lạnh lùng và dửng dưng với tất cả “Nam Cao lạnh lùng quá, kéo mép lên mới nở được một nụ cười khó nhọc”, tuy thế nhưng “thật ra mặt anh lạnh nhưng lòng anh ta sôi nổi”, do đó, cuộc tình của họ được xem là một trong những cuộc tình đẹp nhất trong văn học Việt Nam, không chỉ tình yêu mà còn là tình người. Sau một đêm ở vườn chuối và được Thị Nở - một người đàn bà xấu xí và gàn dở chăm sóc, Chí Phèo đã nghe lương tri trỗi dậy từ bên trong. Từ một thằng săng đá, “cái đầu thì trọc lóc, cái răng cạo trắng hớn, cái mặt thì đen mà rất cơn cơn, hai con mắt gườm gườm trong gớm chết”, hắn đã thấy được những hình ảnh đầu tiên, những âm thanh đầu tiên của cuộc đời của một con người – một con người thực sự. Đó là hình ảnh mặt trời bên ngoài, là tia nắng rực rỡ, là tiếng chim hót ngoài kia vui vẻ quá, là tiếng cười nói của những người đi chợ, là tiếng anh thuyền chài gõ mái chèo đuổi cá… Chao ôi bao nhiêu hình ảnh, bao nhiêu thanh âm thường hằng của cuộc sống mà đến giờ anh mới thấy, mới nghe, mới nhận ra “bởi vì chưa bao giờ anh hết say”. Hắn đã tư lự giật mình về quá khứ, hiện tại và tương lai của chính mình:
“Nhìn phía trước người thân chẳng có
Ngó phía sau quá khứ rợn người”
Bát cháo hành có lẽ là một trong những chi tiết nổi bật nhất trong truyện ngắn. Đúng như Pautopxki đã từng nói: “Chi tiết là hạt bụi vàng của tác phẩm”. Với ba lần xuất hiện, bát cháo hành đã thực hiện ngoạn mục cú lội ngược dòng cho nhân cách Chí Phèo, từ một tên lưu manh bị tha hóa trở về con đường thèm khát lương thiện, thèm khát hạnh phúc đời thường. Lần đầu tiên cầm bát cháo hành trên tay, hắn đã thấy mắt mình hình như ươn ướt bởi “xưa nay nào có ai tự nhiên cho hắn cái gì”, hắn phải dọa nạt, phải giật cướp, phải làm cho người ta khiếp sợ. Đấy là bát cháo là của tình thương, của tình người, của một kẻ gàn dở duy nhất không chối từ hắn ở cái làng Vũ Đại kia. Tương tự ở Đời thừa, nếu như ấm nước còn ấm của Từ thức tỉnh Hộ thì ở đây, bát cháo hành đã làm thay đổi kiếp sống của Chí Phèo. Lần thứ hai là sau khi hắn bị Thị Nở từ chối, bị định kiến xã hội chà đạp, hắn ngẩn người ra và đã ngửi thấy hương cháo hành. Lần thứ ba thoang thoảng thấy hương cháo hành là ngay sau đó, khi Thị chì chiết và bỏ đi, hắn ngay lập tức đã muốn giết cả gia đình nhà “con đĩ Nở” kia. Nhưng Chí đã không làm vậy, Chí đã gục đầu vào men rượu, uống cho tới say mèm đi và ôm mặt khóc rưng rức, nhưng lạ là hơi rượu không sặc sụa mà chỉ có hương cháo hành thoảng qua. Qua đó ta thấy, bát cháo hành là liều thuốc đã cứu rỗi lấy lương tâm quỷ dữ, dù cho sự thức tỉnh về sau phải dẫn tới những cái chết tàn khốc không kém. Chí đã thực sự tỉnh táo, thực sự nhận ra những mất mát đau đớn: mất người tình, mất cơ hội duy nhất để trở về cuộc sống lương thiện. Một kẻ tưởng như phải sống trọn đời là quỷ dữ, chỉ cần nhờ một bát cháo hành nhỏ nhoi, một hương cháo hành ấm áp đã có thể quay về khao khát bản tính con người mới đủ thấy, sức cảm hóa của tình thương lớn đến nhường nào.
Một chi tiết khác quan trọng không kém đó là cái lò gạch cũ – một địa điểm ghi dấu những thân phận bi kịch như lời nguyền của số phận. Là nơi bắt đầu cuộc đời bị khước từ của Chí Phèo cũng là nơi hứa hẹn một cuộc đời khác, một thằng Chí Phèo con với cuộc đời bị bóp nát chẳng kém khi hình ảnh cái lò gạch cũ chợt hiện ra trong đầu thị: “Đột nhiên thị thấy thoáng hiện ra một cái lò gạch cũ bỏ không, xa nhà cửa và vắng người lại qua…” Chí Phèo sau khi thức tỉnh thực sự, sau khi nhận ra kẻ đã dồn đẩy mình vào đường cùng của sự sống, khiến hắn mất mát cả nhân hình lẫn nhân tính đã đến nhà Bá Kiến đòi lại món nợ “lương thiện”. Câu hỏi day dẳng: “Ai cho tao lương thiện?” có lẽ sẽ ám ảnh người đọc muôn đời. Giết chết Bá Kiến chính là sự giải thoát cho bản thân. Tự vẫn chính là hành động để hắn cứu lấy chính mình. Nhưng đến khi con người ấy chết đi, xã hội vẫn loại bỏ hắn đến cùng. Người ta vui mừng trước cái chết của tên Bá Kiến và thằng Chí Phèo. Đau đớn đến thế là cùng! Một thảm kịch tang thương kết thúc cho một số phận bùn nhơ. Thảm kịch ấy kết thúc một đời người nhưng nỗi đau giai cấp vẫn còn được tái hiện trong những sáng tác khác của Nam Cao. Cái chết của Lão Hạc còn được người ta xót thương, tiền đồ tối tăm của chị Dậu còn khiến cho bao giọt nước mắt mặn đắng xót xa rơi xuống còn cái chết của Chí Phèo chung cục chỉ đổi lấy sự hả hê, mỉa mai của dân làng Vũ Đại.
Chí Phèo là tác phẩm chẳng những thành công trên cả phương diện nội dung đã nói ở trên mà còn nổi bật trên phương diện nghệ thuật. Ngôn từ sắc, lạnh trong khắc họa nhân vật nhưng ấp ủ bên trong là một trái tim ấm, nóng luôn sôi sục yêu thương đã thể hiện được sự đa chiều trong tính cách nhân vật. Lối kể chuyện hấp dẫn, để cho nhân vật thản nhiên bước vào bằng những tiếng chửi chớ không phải bằng sự dàn dựng truyền thống, giới thiệu chi tiết ban đầu đã để lại cho người đọc ấn tượng sâu sắc. Những chi tiết được chọn lọc, xây dựng kĩ lưỡng, khéo léo đã đi từ tác phẩm văn chương vào hiện thực đời thường. Đặc biệt là kết cấu truyện vòng tròn – một điểm sáng trong cách viết của cả một giai đoạn văn học đương thời.
Tóm lại, Chí Phèo là một tác phẩm tiêu biểu cho dòng văn học hiện thực phê phán trước cách mạng tháng Tám. Đó là lời tố cáo xã hội đanh thép, là tiếng kêu thống thiết cứu lấy nhân tính con người vẫn còn âm vang cho đến ngày nay:
“Nam Cao mất và Chí Phèo vẫn sống
Nào có dài chi một kiếp người
Nhà văn chết, nhân vật từ trang sách
Vẫn ngày ngày lăn lóc giữa trần ai?”
Xem thêm bài viết khác
- Nội dung chính bài: Thao tác lập luận so sánh
- Anh/chị có nhận xét gì về không gian trong Câu cá mùa thu qua các chuyển động, màu sắc, hình ảnh, âm thanh? Không gian trong Câu cá mùa thu góp phần diễn tả tâm trạng như thế nào?
- Tìm các từ có nghĩa gốc chỉ vị giác có khả năng chuyển nghĩa chỉ đặc điểm của âm thanh, chỉ tính chất của tình cảm, cảm xúc. Hãy đặt câu với mỗi từ đó
- Hãy chỉ ra những mâu thuẫn và những chân dung trào phúng ở đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
- Phân tích vẻ đẹp của ngôn ngữ nghệ thuật trong bài Tự tình II của Hồ Xuân Hương Bài 2 trang 28 SGK Ngữ văn lớp 11 tập 1
- Hai câu đầu bài Vịnh khoa thi hương cho thấy kì thi có gì khác thường?
- Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Hạnh phúc của một tang gia Đặc sắc nghệ thuật của đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
- Trong truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao viết: " Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa
- Soạn văn bài: Ôn tập phần văn học
- Tiểu sử và con người Nam Cao có những đặc điểm gì giúp ta hiểu hơn về sự nghiệp văn học của ông?
- Theo anh/chị, vì sao có thể nói trong văn học từ thế kỉ XVIII đến hết thế kỉ XIX xuất hiện trào lưu nhân đạo chủ nghĩa? Hãy chỉ ra những biểu hiện phong phú, đa dạng của nội dung nhân đạo trong giai đoạn văn học này
- Những giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu?