Tiểu sử và con người Nam Cao có những đặc điểm gì giúp ta hiểu hơn về sự nghiệp văn học của ông?
Câu 1: Trang 142 sgk ngữ văn 11 tập 1
Tiểu sử và con người Nam Cao có những đặc điểm gì giúp ta hiểu hơn về sự nghiệp văn học của ông?
Bài làm:
Nam Cao là nhà văn hiện thực lớn, nhà nhân đạo chủ nghĩa lớn, có đóng góp quan trọng đối với quá trình hiện đại hóa truyện ngắn và tiểu thuyết Việt Nam nửa đầu thế kỷ XX. Chính tiểu sự và con người ông đã ảnh hưởng mạnh mẽ đến sự nghiệp văn học cũng như phong cách nghệ thuật của ông.
Thật vậy! ông xuất thân trong gia đình nông dân và là một tri thức nghèo cuộc sống chật vật khó khăn. Nam Cao (1917 – 1951) tên khai sinh là Trần Hữu Tri, sinh trong một gia đình nông dân ở làng Đại Hoàng, tổng Cao Đà, huyện Nam Sang, phủ Lí Nhân (nay xã Hòa Hậu, huyện Lí Nhân) tỉnh Hà Nam. Học hết bậc Thành chung, Nam Cao vào Sài Gòn kiếm sống và bắt đầu sáng tác. Sau hơn ba năm vì đau ốm ông phải trở về quê. Sau đó ông dạy học ở một trường tư thục ở ngoại ô Hà Nội. Nhưng cuộc đời giáo khổ trường tư cũng không yên: quân Nhật vào Đông Dương, trường đóng cửa, ông phải sống chật vật, lay lắt bằng nghề viết văn và gia sư. Đầu năm 1943, ông tham gia nhóm văn hóa cứu quốc ở Hà Nội. Bị địch khủng bố gắt gao, ông phải lánh về quê rồi tham gia khởi nghĩa tháng Tám năm 1945 ở phủ Lí Nhân. Năm 1946, với tư cách là phóng viên mặt trận, ông có mặt trong đoàn quân Nam tiến vào đến Nam Trung Bộ. Mùa thu năm 1947, ông lên Việt Bắc làm công tác báo chí, tuyên truyền phục vụ kháng chiến; năm 1950, ông tham gia chiến dịch Biên giới. Tháng 11 – 1951, trên đường vào công tác ở vùng sau lưng địch liên khu III, ông bị giặc Pháp phục kích và sát hại.
Con người Nam Cao nhìn bề ngoài có vẻ vụng về ít nói (ông tự giễu mình là “cái mặt không chơi được”), nhưng đời sống nội tâm lại phong phú, luôn sôi sục, có khi căng thẳng. Bình sinh, Nam Cao thường day dứt, hối hận lấy làm xấu hổ về những việc làm, những ý nghĩ mà ông cho là tầm thường của mình. Người trí thức “trung thực vô ngần” (Tô Hoài) ấy luôn đấu tranh với chính mình để thoát khỏi lối sống tầm thường nhỏ nhen, khao khát vươn tới tâm hồn trong sạch. Gía trị to lớn nhất của sáng tác Nam Cao, nhất là những tác phẩm viết về người trí thức nghèo, gắn liền với cuộc đấu tranh bản thân trung thực, âm thầm mà quyết liệt trong suốt cuộc đời cầm bút của ông.
Nam Cao là người có tấm lòng thật đôn hậu, chan chứa yêu thương. Ông gắn bó sâu nặng, giàu ân tình với quê hương và những người nghèo khổ bị áp bức khinh biệt trong xã hội cũ. Ông quan niệm, không có tình thương đồng loại thì không đáng là con người (Đời thừa). Đó là một trong những lý do dẫn Nam Cao đén với con đường nghệ thuật hiện thực “vị nhân sinh” và tạo nên những tác phẩm thấm đượm tư tưởng nhân đạo sâu sắc.
Xem thêm bài viết khác
- Những giá trị nội dung và nghệ thuật của thơ văn Nguyễn Đình Chiểu?
- Soạn văn bài: Chữ người tử tù
- Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Câu cá mùa thu Nội dung – nghệ thuật của Câu cá mùa thu
- Anh/chị có nhận xét gì về không gian trong Câu cá mùa thu qua các chuyển động, màu sắc, hình ảnh, âm thanh? Không gian trong Câu cá mùa thu góp phần diễn tả tâm trạng như thế nào?
- Vận dụng hiểu biết về ngữ cảnh để lý giải những chi tiết cụ thể hình ảnh bà Tú trong bài thơ Thương Vợ của Tú Xương.
- Tìm thành ngữ trong đoạn thơ sau, phân biệt với từ ngữ thông thường về mặt cấu tạo và đặc điểm ý nghĩa
- Hạnh phúc của một tang gia là một phần của nhan đề chương XV tiểu thuyết Số đỏ do chính Vũ Trọng Phụng đặt. Anh (chị) có suy nghĩ gì về nhan đề này và tình huống trào phúng của đoạn trích? Bài 1 trang 128 sgk Ngữ văn 11 tập 1
- Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Thương vợ Nội dung và nghệ thuật bài thơ Thương vợ
- Trong truyện ngắn Đời thừa, Nam Cao viết: " Văn chương không cần đến những người thợ khéo tay, làm theo một vài kiểu mẫu đưa cho. Văn chương chỉ dung nạp những người biết đào sâu, biết tìm tòi, khơi những nguồn chưa ai khơi, và sáng tạo những cái gì chưa
- Phân tích ý nghĩa tượng trưng của các yếu tố tả thực hình ảnh người đi trên cát
- Hãy chỉ ra những mâu thuẫn và những chân dung trào phúng ở đoạn trích Hạnh phúc của một tang gia
- Nội dung chính bài: Từ ngôn ngữ chung đến lời nói cá nhân (Tiếp theo)