Văn mẫu 12 bài viết số 3 đề 4a: Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích đất nước và bài đất nước của Nguyễn Đình Thi

  • 1 Đánh giá

Bài viết tập làm văn số 3 - ngữ văn lớp 12 đề 4a: Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích đất nước và bài đất nước của Nguyễn Đình Thi. Sau đây, KhoaHoc gửi đến cho bạn đọc những bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo.


Nội dung bài gồm:

Back to top

Bài mẫu 1: Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích đất nước và bài đất nước của Nguyễn Đình Thi

Bài làm

Hình tượng đất nước là hình tượng xuyên suốt nền văn học Việt Nam từ xưa đến nay. Trải qua trường kì lịch sử đấu tranh để sinh tồn và xây dựng, hình tượng đất nước được bồi đắp hoàn thiện qua những áng thơ văn tiêu biểu như của Lý Thường Kiệt, Nguyễn Trãi, Nguyễn Đình Chiểu... Đặc biệt là trong thơ ca Việt Nam hiện đại, các nhà thơ đã tạc nên tượng đài cao cả về đất nước trong một thời đại mới.

Hai nhà thơ: Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm qua hai bài thơ cùng mang tên Đất nước đã đem lại cho người đọc những cảm nhận mới mẻ, đầy đủ, trọn vẹn và sâu sắc về đất nước

Cùng ra đời sau Cách mạng tháng Tám, nhân dân được làm chủ đất nước mình, cả hai bài thơ đều thể hiện được hình tượng một đất nước giàu đẹp, nhân dân anh hùng. Cả hai nhà thơ đều tìm đến giọng thơ trữ tình - chính luận để thể hiện hình tượng đất nước. Hai bài thơ vừa có sự rung cảm sâu xa vừa có những tìm tòi, sáng tạo đầy tính trí tuệ. Vì thế, hình tượng đất nước đến với người đọc vừa qua sự rung cảm thẩm mĩ vừa có thêm những nhận thức sâu sắc về đất nước.

Tuy nhiên, về cơ bản hai nhà thơ đã có những cách biểu hiện riêng về đất nước.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi được khởi viết từ năm 1948 đến năm 1955 mới hoàn thành. Cảm hứng của nhà thơ đi suốt chiều dài của cuộc kháng chiến chống Pháp. Cảm hứng ấy còn được liên hệ với quá khứ và mở rộng tới tương lai về một đất nước hiền hòa mà bất khuất vươn dậy thần kì trong chiến thắng huy hoàng. Đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi mang màu sắc hiện đại. Nói như vậy không có nghĩa là bài thơ thiếu đi nét dân tộc, nét truyền thống. Tính dân tộc thể hiện trong vẻ đẹp trường cửu của mùa thu xứ sở, của gió heo may, của hương cốm mới. đặc biệt là cảm giác mát trong xao xuyến hồn người, một cảm giác gợi nhớ bâng khuâng:

“Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày đã xa”

Bài Đất nước của Nguyễn Đình Thi được mở đầu với vẻ đẹp trường cửu ấy của mùa thu xứ sở. Tiếp đến là những hình ảnh mang đậm sắc màu Việt Nam trong chiều sâu tâm hồn dân tộc:

“Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa”

Hình tượng đất nước hiện ra với những hình ảnh thơ xúc động nối với mạch ngầm truyền thống dân tộc:

“Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về ”

Tuy nhiên, nhìn toàn bài, màu sắc hiện đại vẫn nổi lên khá rõ. Đó là một đất nước trong chiến tranh vệ quốc của thế kỉ XX. Hình tượng đất nước được ấp ủ, trải nghiệm, đúc kết trong suốt cuộc kháng chiến chín năm. Khi nói về những đau thương, hình tượng đất nước được thể hiện với những hình ảnh hiện đại, cách nói hiện đại:

“Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều”

Trong chiến tranh, đất nước bao giờ cũng gắn với những đau thương, tang tóc nhưng nếu trong thơ truyền thống là những hình ảnh: “Nướng dân đen trên ngọn lửa hung tàn / Vùi con đỏ xuống dưới hầm tai vạ” (Nguyễn Trãi - Bình Ngô đại cáo) thì trong thơ Nguyễn Đình Thi, đó là hình ảnh cánh đồng “chảy máu”, “dây thép gai đâm nát trời chiều”, những hình ảnh gắn với tư duy thơ hiện đại. Những hình ảnh gợi nỗi đau vô tận và sự căm thù vô biên.

Từ trong đau thương uất hận, dân tộc ta đã đứng lên với tinh thần bất khuất:

“Xiềng xích chúng bay không khóa được

Trời đầy chim và đất đầy hoa

Súng đạn chúng bay không bắn được

Lòng dân ta yêu nước, thương nhà”.

Để thể hiện tinh thần bất khuất của dân tộc, nguyễn Đình Thi đã dùng những hình ảnh thơ hiện đại. “Xiềng xích” là cái hữu hạn, “trời đầy chim và đất đầy hoa” là cái vô hạn. “Súng đạn” là cái cụ thể, “lòng dân ta yêu nước thương nhà” là cái trừu tượng. Dùng cái cụ thể để “bắn” cái trừu tượng cũng như dùng cái hữu hạn để “khóa” cái vô hạn là không thể. Điều đó nói lên sự bất lực của kẻ thù và sự bất diệt của dân tộc ta.

Đặc biệt là hình tượng đất nước trong ánh sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng và trong chiến thắng chói lòa:

“Súng nổ rung trời giận dữ

Người lên như nước vỡ bờ

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa”

Đây là đỉnh cao của cảm xúc, suy tư về đất nước. Bức chân dung đất nước vừa cụ thể vừa âm vang chiến trận vừa vươn tới hình tượng sử thi hoành tráng giàu sức khái quát. Khổ thơ là một khám phá về hình tượng đất nước trong ánh sáng của chủ nghĩa anh hùng cách mạng Việt Nam. Nước Việt Nam từ bùn lầy của nô lệ, từ đau thương trong máu lửa bứt dậy mạnh mẽ làm nên thiên thần thoại lịch sử chói sáng, chiến thắng huy hoàng. Đó là chân dung của một nước Việt Nam chói ngời trên nền của lửa máu, bùn lầy và khói đạn, một nước Việt Nam sừng sững kiêu hãnh giữa thế kỉ XX trong cuộc chiến tranh vệ quốc vĩ đại.

Vẫn tiếp tục cảm hứng về đất nước, hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm lại là một Đất Nước trong màu sắc văn hóa dân gian. Nhà thơ đã dùng một đất nước của ca dao, thần thoại để thể hiện hình tượng đất nước, thể hiện tư tưởng “Đất Nước của Nhân dân”. Cách nói vừa quen thuộc vừa mới mẻ. Quen thuộc bởi dân gian cũng đồng nghĩa với nhân dân, một nhân dân ở phần cơ bản nhất, đậm đà nhất, dễ thấy nhất. Còn mới mẻ là bởi những chất liệu văn hóa dân gian được soi vào hình hài đất nước, gợi ra một đất nước vừa gần gũi vừa đậm chất thơ, vừa bình dị vừa vĩnh hằng trường cửu.

Khi nói về sự hình thành, lớn lên của đất nước, Nguyễn Khoa Điềm đã thể hiện gương mặt đất nước hiện ra từ chiều sâu của văn hóa dân gian, của phong tục tập quán từ lời kể của bà, lời ru của mẹ, từ muối mặn, gừng cay, từ những giọt mồ hôi vất vả, tảo tần.

Đất nước là những gì quen thuộc mà cũng đầy tôn kính, thiêng liêng:

“Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái ngày xửa, ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, dần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó... ”

Khái niệm đất nước tiếp tục được làm rõ trong thước đo của “thời gian đằng đẵng, không gian mênh mông”, thước đo của lịch sử, địa lí. Nói đến chiều sâu lịch sử cũng đồng thời là chiều sâu vẻ đẹp tâm hồn Việt Nam. Đó là huyền thoại Lạc Long Quân và Âu Cơ, là truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ, những huyền thoại, truyền thuyết gợi ra quá trình sinh thành và lớn lên của dân tộc, cũng là quá trình trưởng thành bền vững của hình tượng đất nước.

Không gian địa lí không chỉ là núi, sông, đồng, bể... mà còn là không gian gần gũi với cuộc sống của mỗi người (Đất là nơi anh đến trường / Nước là nơi em tắm). Đất nước cũng là không gian sinh tồn của cộng đồng qua bao thế hệ. Đất nước hóa thân trong mỗi con người (Trong anh và em hôm nay / Đều có một phần đất nước). Hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm là sự thống nhất giữa cái riêng và cái chung, giữa cá nhân với cộng đồng, giữa cái nhỏ bé với cái lớn lao, giữa cái cụ thể với cái trừu tượng, giữa vật chất với tinh thần. Hình tượng đất nươc được soi
chiếu trong cái nhìn của văn hóa dân gian. Từ kho tàng văn hóa dân gian phong phú, đẹp đẽ đó, nhà thơ phát hiện ra một đất nước đầy thi vị lại giàu chất trí tuệ.

“Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất Nước những núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

Gót ngựa của Thánh Gióng đi qua còn trăm ao đầm để lại

Chín mươi chín con voi góp mình dựng đất tổ Hùng Vương

Những con rồng nằm im góp dòng sông xanh thẳm

Người học trò nghèo góp cho Đất Nước mình núi Bút non Nghiên

Con cóc, con gà quê hương góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Những người dân nào đã góp tên Ông Đốc, Ông Trang, Bà Đen, Bà Điểm ”

Những cái tên, những cảnh trí của thiên nhiên đất nước được cảm nhận qua cảnh ngộ, số phận của nhân dân. Những núi, sông, ruộng đồng, gò bãi... như là sự hóa thân những phẩm chất cao đẹp của nhân dân. Chính hình tượng đất nước được tạo nên từ những chất liệu đặc biệt ấy mà trở nên thiêng liêng, thân thiết bội phần.

Hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm có bề dày bốn nghìn năm của một nhân dân vô danh đã dựng lên đất nước:

“Trong bốn nghìn lớp người giống ta lứa tuổi

Họ đã sống và chết

Giản dị và bình tâm

Không ai nhớ mà đặt tên

Nhưng họ đã làm ra Đất Nước”

Như vậy, hình tượng đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm vừa có bề dày của lịch sử, bề rộng của không gian địa lí, bề sâu của văn hóa, phong tục tập quán. Tất cả đều được nhìn trong cái nhìn của văn hóa dân gian. Chính những phát hiện cùng với cách thể hiện mới mẻ ấy đã nêu bật được một tư tưởng cốt lỗi: “Đất Nước của Nhân dân, Đất Nước của ca dao, thần thoại”. Nguyễn Khoa Điềm đã chọn lọc những cái tiêu biểu nhất, có ý nghĩa nhất của văn hóa dân gian và “chế biến” nó để vận dụng sáng tạo vào thơ mình. Vì vậy, những yếu tố đó đã hòa nhập khá tự nhiên với tư duy và cách diễn đạt hiện đại tạo ra màu sắc thẩm mĩ vừa quen thuộc vừa mới mẻ cho bài thơ. Đó chính là những đóng góp quan trọng của giọng thơ Nguyễn Khoa Điềm trong nền thơ ca Việt Nam hiện đại khi tạo dựng chân dung đất nước trong thời đại mới.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi hay Đất Nước của Nguyễn Khoa Điềm đều thể hiện tình yêu quê hương đất Việt sâu sắc và cảm động. hình tượng đất nước trong hai bài thơ là sự cảm nhận về đất nước trong ý thức mới đầy tính nhân văn của thời đại Hồ Chí Minh. Một gương mặt đất nước mang màu sắc hiện đại trong thơ Nguyễn Đình Thi. Một hình tượng đất nước đậm đà phong vị dân gian trong thơ Nguyễn Khoa Điềm đã đem lại cho người đọc hôm nay những rung động thẩm mĩ và những cảm nhận đầy đủ, trọn vẹn về Tổ quốc và nhân dân, từ đó thể hiện sâu sắc hơn tình yêu và ý thức trách nhiệm đối với đất nước và nhân dân mình.

Back to top

Bài mẫu 2: Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích đất nước và bài đất nước của Nguyễn Đình Thi

Bài làm

Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu. Nghe dịu nỗi đau của mẹ. Ba lần tiễn con đi, hai lần khóc thầm lặng lẽ. Các anh không về mình mẹ lặng im…(Tạ Hữu Yên). Cứ mỗi lần nghe lại bài hát này lòng ta xốn xanh da diết ! Nhớ những ngày bé thơ đến lớp, cô giáo dạy tôi viết hai chữ “Việt Nam” và gọi đó là Đất Nước. Tôi mơ hồ chả hiểu, chỉ biết rằng đó là cái gì lớn lao và thật quý báu lắm ! Thời gian trôi qua nhanh, mang tuổi thơ bé bỏng của tôi đi xa. Cho đến hôm nay, qua bao nhiêu vần thơ đọc được tôi đã thấm thía hai tiếng thiêng liêng “Đất Nước”. Nhưng rất buồn là tôi không thể viết thành thơ. Trong những vần thơ “ Đất nước” mến yêu dạt dào cảm hứng ấy, có tác phẩm của Nguyễn Đình Thi và Nguyễn Khoa Điềm.

Hai nhà thơ đã truyền cho tôi cảm xúc mạnh mẽ. Những vần thơ giúp tôi nhìn ra chân dung của đất nước. Bình dị và trong sách, hồn hậu và nhân ái, nghèo khổ nhưng oai hùng. Có lẽ chính những điều ấy đã khơi gợi cảm hứng cho các bài thơ, đã gieo vào lòng từng nhà thơ bao suy tư và trăn trở. Từ cảm xúc của những ngày sống hết mình với chiến đấu, từ vốn tri thức khá phong phú của mình, qua chương “Đất nước” Nguyễn Khoa Điềm đã cắt nghĩa sâu xa cho tuổi trẻ thành thị miền Nam lúc này. Những hiểu biết về lịch sử dân tộc như sống dậy, lay động tâm hồn tác giả. Mỗi câu chuyện cổ tích, những thời khắc lịch sử của những cuộc đấu tranh giữ nước và dựng nước ngày càng thiêng liêng, tha thiết hơn bao giờ ….

Khi ta lớn lên Đất Nước đã có rồi

Đất Nước có trong những cái “ngày xửa ngày xưa”…mẹ thường hay kể

Đất Nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân ta biết trồng tre và đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn

Cái kèo, cái cột thành tên

Hạt gạo phải một nắng hai sương xay, giã, giần, sàng

Đất Nước có từ ngày đó.

Trong hai câu thơ của Nguyễn Khoa Điềm man mác âm hưởng sử thi. Yếu tố cổ điển và hiện đại hoà quỵên vào nhau tạo thành một cấu trúc hai cực. Đất nước mình chân thật như cuộc sống. Những câu thơ dài tuôn chảy êm dịu như dòng sông. Một dòng cảm xúc dào dạt âm thầm nhưng mãnh liệt. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm bắt nguồn từ những huyền thoại : “Ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể”. Dường như nhà thơ đã huy động vào đây nhiều vốn liếng, trí tuệ, sự từng trải, gửi gắm vào đây bao kỉ niệm suy tư. Nguyễn Khoa Điềm đã cùng ta hành hương về với cội nguồn dân tộc và rồi tham gia vào cuộc chiến đấu chung là con đường đúng đắn duy nhất đối với người thanh niên yêu nước. Nhà thơ mạnh dạn để cái “tôi” của mình xuất hiện. Có thể nói rằng , muốn viết những vần thơ tuyệt vời về Đất nước không chỉ đơn thuần là nhà thơ biết rung động trước một vầng trăng, một tia nắng, một điệu dân ca hay một tiếng thơ cổ điển. Đây là cả một quá trình suy ngẫm, và “nhìn lại” đất nước. Từng lời thơ đầm ấm giàu ý thức của tuổi trẻ đã nhận ra vai trò của mình trước thời đại và nhận thức được đất nước này là của nhân dân. Chúng ta phải chiến đấu để bảo vệ đất nước tươi đẹp. Nhà thơ cảm nhận phát hiện ra đất nước từ csai nhìn tổng hợp , nhiều mặt và dường như đã toàn vẹn. Với Nguyễn Đình Thi cảm hứng về đất nước bắt nguồn từ những chất liệu hình ảnh cụ thể, sinh động của cuộc kháng chiến chín năm cứu nước thần thánh của chúng ta. Bài thơ mang tính khái quát về cảm hứng lịch sử và truyền thống của dân tộc. Có phải chăng, cái cảm hứng ấy của hai nhà thơ này đều bắt nguồn từ lòng yêu nước sâu sắc? Do hoàn cảnh và thời điểm lịch sử mà mỗi nhà thơ lại có cảm nhận khác nhau. Cảm hứng về đất nước đến với Nguyễn Đình Thi trong lúc cuộc kháng chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Người thanh niên Hà Nội ấy, cũng đã bước vào cuộc kháng chiến nhưng tâm hồn anh thanh niên vẫ đủ sức cảm nhận:

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Tôi nhớ những ngày thu đã xa.

Chính “mùa thu Hà Nội” ngày hôm nay đã gợi cảm hứng cho tác giả. Nhìn mùa thu này nhà thơ lại nhớ đến mùa thu xưa. Dường như lời hát “Mùa thu rồi ngày hăm ba, ta ra đi theo tiếng gọi sơn hà nguy biến. Rên khắp trời, lời hoan hô quân, dân ta tiến ra trận tiền” còn vang vọng bên tai. Hôm nay đứng giữa đất trời chiến khu trong buổi sáng mùa thu mát lành nhà thơ suy tư về đất nước. Cái cảm giác đầu tiên mà Nguyễn Đình Thi bắt gặp là cái rất riêng, rất đặc trưng về, rất Hà Nội : mùi hương cốm mát. Phải là một chàng trai Hà Nội chính gốc mới có được cái cảm nhận ấy. Phải gắn bó máu thịt với thủ đô mới chan hoà tình thương nơi này đến thế ! Niềm cảm xúc dâng trào. Những hồi tưởng về mùa thu trước tuy êm ái nhưng thật ra lòng nhà thơ dạt dào biết bao

Sáng chớm lạnh trong lòng Hà Nội

Những phố dài xao xác hơi may

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy.

Người ra đi mang dáng dấp của cậu học trò, tỏng sáng lưu luyến bao nhiêu kỉ niệm đẹp với từng con phố dài xao xác hơi may. Có một chút lưu luyến bâng khuâng trong lòng người, nhưng không hề bi luỵ. Câu thơ mang màu sắc lãng mạn tươi mát trong lành:

Sau lăng thềm nắng lá rơi đầy

Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Đình Thi cũng bắt đầu vui phơi phới của người tự do. Đứng giữa một vùng chiến khu tự do nhà văn đón nhận đất nước với những điều mới mẻ:

Mùa thu nay khác rồi

Tôi đứng vui nghe giữa núi đồi

Gió thổi rừng tre phấp phới

Trời thu thay áo mới

Trong biếc nói cười thiết tha.

Phải có con mắt tinh tế, giao cảm với thiên nhiên nhà thơ mới nhận được sự”thay áo mới” của mùa thu. Tất cả như nô nức, muôn âm thanh trong trẻo xanh biếc của trời thu như hoà quyện vào nhau; đất nước như “đang cười, đang nói”. Tâm hồn nhà thơ dạt dào mênh mông thấy đất nước mình như “rừng tre phấp phới”. Hình ảnh cây tre cũng được các nhà thơ nhắc đến khi viết về đất nước:

Ta yêu Việt Nam đẹp, Việt Nam thơ bát ngát câu Kiều bờ tre, mái rạ

Mái đình cong con như em gái giữa đêm chèo

Cánh cò Việt Nam trong hơi mát xấm xoen cò lả

Cái đôn hậu nhân tình trong nét chạm chùa Keo

(Chế Lan Viên)

Từ xúc cảm mãnh liệt dạt dào nhà thơ cảm nhận được đất nước mình không giống Chế Lan Viên với lối trầm ngâm, lắng đọng mà ở đây, đất nước hiện lên nô nức, tươi mát nhưng cũng hết sức hào hùng:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm ngát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Nhà thơ không thiên tả cảnh mà nghiêng về yếu tố tượng trưng. Chỉ một vài hình ảnh cụ thể như : “ núi rừng, những cánh đồng, ngả đường, dòng sông” nhà thơ đã vẽ nên đất nước. Một đất nước được khẳng định chủ quyền “ Trời xanh đây là của chúng ta”, giống Lý Thường Kiệt ngày xưa đã khẳng định : “Nam quốc sơn hà nam đế cư”. Mượn một vài hình ảnh cụ thể nhưng có tính khái quát cao nhà thơ đã gửi găm stình cảm, gửi gắm tâm trạng của mình trong đó. Niềm tự hào nhà thơ thể hiện qua điệp nhữ “của chúng ta”. Rất đẹp, rất thơ với “những cánh đồng, những dòng sông, rừng núi”…Cảm hứng lịch sử với truyền thống dân tộc đã nhắc nhở nhà thơ đừng quên:

Nước chúng ta

Nước của những người chưa bao giờ khuất

Đêm đêm rì rầm trong tiếng đất

Những buổi ngày xưa vọng nói về.

Có nhìn về quá khứ xa xôi mới quý hơn những ngày mình đang sống . ở đây càng thấy quý hơn bởi chữ “tâm” của nhà thơ. Không chỉ có cảm nhận đất nước trong hiện tại với biết bao niềm vui chào đón mà còn nhìn lại lịch sử dân tộc. Có phải chăng những tiếng “rì rầm” trong đất ấy, những buổi ngày xưa vọng về thôi thúc bước chân và trái tim nhà thơ? Cảm hưúng thời đại đã kết hợp nhuần nhuyễn với cảm hứng lịch sử truyền thống đã tạo ra những câu thơ tuyệt vời. Thi sĩ Gớt( Đức) có nói rằng : “Nhà thơ phải biết nắm lấy cái riêng biệt và từ đó, nếu cái riêng biệt là chân chính nhà thơ biểu hiện cái khái quát”. Nguyễn Đình Thi đã đi theo cái hướng này và đã thành công. Bằng những liên kết sóng đôi nhà thơ thường đi từ cái cụ thể đến cái khái quát.

Do đó mạch thơ tuôn trào theo cảm xúc không bị dàn trải. Nhà thơ cảm nhận đất nước bằng chính cái tâm hồn của mình, đáy lòng mình, không triết lý, không ồn ào nhưng đầy khích lệ. Chính vì vậy mà đất nước Việt Nam hiện lên rất hiện thực. Đó là một đất nước tạo hình trong đau khổ. Chíên tranh kéo dài không biết bao năm từ Đinh, Lý, Trần, Lê và cho đến ngày hôm nay vẫn chưa hết. Đất nước vẫn còn:

Những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều.

Từ xúc cảm khôgn chỉ là niềm vui mà còn là nỗi đau nên trong bài thơ Đất nước lại có những vần thơ “đẫm nước mắt” như thế. Hình ảnh “cánh đồng quê chảy máu” đã tố cáo tội ác của giặc. Lấy “máu đỏ mà tưới trên cánh đồng vàng” không phải là tàn nhẫn hay sao? Cái hay của Nguyễn Đình Thi là ở chỗ đó. Hiện thực, quá khứ đã hội tụ về đây đó trong bài thơ nhưng với tâm hồn của một người lính mang dáng dấp học trò. cảm hứng lãng mạn luôn luôn chi phối.

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu.

Tình cảm riêng tư cũng đã trở thành cảm hứng về đất nước. Trong cái chung bao giờ cũng có cái riêng Nguyễn Đình Thi đã từng nói “Ta yêu em như yêu đất nước”. Chính những tình cảm này đã góp phần tạo nên “Đất nước” đôn hậu, ân tình và trìu mến hơn. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng được khơi gợi từ chuyện giữa “anh và em”.

Đất là nơi anh đến trường

Nước là nơi em tắm

Đất Nước là nơi ta hò hẹn

Đất Nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm.

Nguyễn Khoa Điềm đã tiếp nhận đất nước trên nhiều phương diện. Từ địa lý cho đến lịch sử , rất cụ thể. Những câu thơ dài xen lẫn những câu ngắn và lối chiết tự khiến cho lời thơ có vẻ trầm tư. Tình yêu lứa đôi nảy sinh trong tình yêu đất nước. Cảm hứng đất nước bắt nguồn từ cách cảm nhận của nhà thơ qua những trắc nghiệm trong cuộc kháng chiến chống Mỹ. Tư tưởng của nhân dân đã chi phối toàn bộ cảm hứng, cấu từ hình tượng thơ. Nhà thơ cảm nhận rằng chính nhân dân đã làm nên đất nước và đất nước đã muôn đời là của nhân dân. Đất nước đối với nhà thơ vừa cụ thể mà cũng huyền ảo. Bởi vì cảm hứng ấy bắt nguồn từ những câu chuyện cổ, từ những điều gần gũi thân thương với cuộc sống của chúng ta:

Đất nước bắt đầu với miếng trầu bây giờ bà ăn

Đất Nước lớn lên khi dân mình biết trồng tre mà đánh giặc

Tóc mẹ thì bới sau đầu

Cha mẹ thương nhau bằng gừng cay muối mặn.

Rất cụ thể, gần gũi và bình dị : “Tóc mẹ…gừng cay muối mặn”. Nhưng đây cũng là sự sáng tạo. Nhà thơ cảm nhận đất nước theo chiều dài, lẫn chiều sâu, xuyên suốt từ quá khứ cho đến hiện tại. Truyền thống, phong tục được coi là chất sống vĩnh hằng. Đất nước là tất cả những gì có trong cuộc sống, là mối quan hệ giữa cá nhân và cộng đồng:

Trong anh và em hôm nay

Đều có một phần Đất Nước

…Em ơi em Đất Nước là một phần trong máu xương của mình

Phải biết gắn bó và san sẻ

Phải biết hoá thân cho dáng hình xứ sở

Làm nên Đất Nước muôn đời…

Lời nhắn nhủ có vẻ riêng tư nhưng thật ra tác giả muốn nói chung với tất cả chúng ta. Không phải là lời giáo huấn mà là nỗi tâm tình, đầm ấm và thắm thiết. Những gì đã qua mà nhà thơ chứng kiến, đã biết, đã hiểu là nguồn cảm hứng chủ yếu của bài thơ. Tình yêu nước thể hiện thầm kín trong từng câu thơ. Dường như đối với Nguyễn Khoa điềm đất nước mênh mông rông lớn lắm nhưng nó không xa lạ gì với chúng ta, nó ở ngay trong ta. Tất cả những gì có trong cuộc sống đều góp phần tạo nên đất nước. Đó là cảm nhận của lớp người đi trước. Nhà thơ đã khắc hoạ lại đất nước hết sức điển hình. Một đất nước Việt Nam với những chuyện cổ tích, ca dao, bình dị, chân tình nhưng người dân giàu lòng yêu thương, sẵn sàng hi sinh mình để tạo nên dáng hình xứ sở. Cảm hứng về đất nước của Nguyễn Khoa Điềm không dừng lại ở một giới hạn nào, bởi vì đất nước kết tinh trong mỗi con người. Đất nước hoá thân trong đời sống của mỗi cá nhân và mỗi cá nhân đang sống đều mang di sản đất nước của cha ông để lại.

Ôi đất nước bốn nghìn năm đi đâu ta cũng thấy

Những cuộc đời đã hoá núi sông ta

Vì vậy, chúng ta hôm nay có trách nhiệm giữ gìn và truyền cho thế hệ mai sau. Cảm hứng thời đại xen với cảm hứng truyền thống. Lịch sử dân tộc tạo ra mạch thơ dài không ngơi nghỉ. Nhưng điều đó khiến ta liên tưởng đến đất nước mình…Trong từng thời điểm, đất nước có những phút giây thơ mộng nhưng qua bao nhiêu chặng đường mà nhà thơ đã đi đất nước sống trong cực nhọc, nặng nề dưới bom đạn , chiến tranh. Nhưng mà cha ông ta:

Sống vững chãi bốn ngàn năm sừng sững

Lưng đeo gươmg ta mềm mại bút hoa

Trong và thực sáng hai bờ suy tưởng

Sống hiên ngang mà nhân ái chan hoà

(Huy Cận)

Chính nỗi đau đớn mà đất nước đã phải chịu đựng làm xốn xang tâm hồn của nhà thơ. Thật vậy, bốn ngàn năm qua tổ quốc ta chưa hề châm dứt chiến tranh:

“Đất nước tôi, đất nước tôi, từ thuở còn nằm nôi sáng chắn bão giông, chiều ngăn nắng lửa…”

Những buổi trưa hè giọng ca dao vẫn cất lên trên đất nước đau thương. Cung xlà một đất nước Việt Nam nhưng mỗi nhà thơ đều cảm nhận ở những điều khác nhau. Cảm hứng về “đất nước” bắg đầu từ hiện thực. Nhưng ở mỗi nhà thơ đều mang hình nét lãng mạn, lạc quan:

Đất Nước của nhân dân, Đất Nước cả ca dao thần thoại

Dạy anh biết “Yêu em từ thuở trong nôi”

“Đất nước” là chủ đề bao trùm thơ Việt Nam trong giai đoạn 1945-1975. Biết bao nhà thơ đã viết về đề tài nay. Nhưng tôi cho rằng trong tất cả những bài thơ Đất nước Nguyễn Đình Thi là người thành công hơn cả. Đất nước của Nguyễn Đình Thi rất chân thật nhưng rất nghệ thuật nhờ nhà thơ đã chọn hình tượng đặc sắc. Tuy nhiên ở mỗi bài thơ Đất nước nhà thơ nào cũng có nét hay riêng.

Tóm lại, cảm hứng đất nước của nhà thơ bắt ngùôn từ lòng yêu nước chân thành, sâu sắc ! Cảm hứng đó không bắt gặp trong hiện tại mà họ còn tìm về quá khứ. Với những năm tháng gian khổ chiến tranh với truyền thống tốt đẹp của dân tộc…Chính các nhà thơ cũng có một phần tạo ra: “Nam quốc sơn hà” tươi đẹp ! Để chúng ta có thể tự hào : “Đất nước tôi…sáng ngời muôn thuở. Khi trăng đã vào cửa sổ đòi thơ…”

Back to top

Bài mẫu 3: Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích đất nước và bài đất nước của Nguyễn Đình Thi

Bài làm

Trải suốt chiều dài lịch sử văn học, hình tượng đất nước đã bắt nhịp trái tim của không biết bao nhiêu nghệ sĩ để đi vào thơ với vẻ đẹp thiêng liêng và niềm tin yêu sâu sắc. Hồn thiêng đất nước, tinh thần dân tộc hào hùng được bắt nguồn từ Nam quốc sơn hà, Hịch tướng sĩ... tiếp nối bền vững qua mỗi thời kì. Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm gặp gỡ nhau ở đề tài ấy. Hai cuộc kháng chiến vệ quốc vĩ đại, gian khổ lại thêm một lần tạo nên hoàn cảnh đặt biệt để xuất hiện những vần thơ yêu nước với cách thể hiện độc đáo.

Đất nước của Nguyễn Đình Thi và Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm nằm trong số những đỉnh cao của nền thơ ca cách mạng Việt Nam ra đời trong giai đoạn 1930- 1945. Nung nấu và vang vọng từ những năm tháng hào hùng của cuộc kháng chiến chống thực dân Pháp, “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi viết năm 1948 là một bài thơ trữ tình tràn đầy niềm tự hào về sự trường tồn của đất nước và tinh thần bất khuất Việt Nam. Với phong cách nghệ thuật đầy cá tính, Nguyễn Đình Thi đã thổi vào vần luật phóng túng của thơ tự do giọng thơ sôi nổi, hào sảng, chân thật cùng những hình tượng đặc sắc. Đất nước của Nguyễn Khoa Điềm cũng là thành tựu nghệ thuật tiêu biểu của thơ ca kháng chiến chống Mĩ. Nằm trong trường ca “Mặt đường khát vọng”(1971), chương V đã gói ghém trọn vẹn tâm tư của người thanh niên trí thức tham gia tích cực vào sự nghiệp giải phóng dân tộc. Bài thơ kết hợp giữa cảm xúc và lí trí, trữ tình và chính luận đem đến cho người đọc cái nhìn toàn vẹn, nhiều chiều về đất nước mình. Hai thi phẩm vừa có những nét chung về đề tài, cảm xúc lại có nhiều khác biệt về cảm hứng, thi tứ, giọng điệu ... để lại ấn tượng sâu đậm đối với người đọc.

Trước hết, hai bài thơ hội tụ những nét chung giống như nền tảng cơ bản để tạo thành giá trị vững chắc xuyên suốt thi mạch dân tộc. Đó là cảm hứng về đề tài đất nước quen thuộc được ngợi ca, tôn vinh với lòng trân trọng và tâm tư, cảm xúc chân thành. Trong từng hoàn cảnh lịch sử cụ thể, đất nước lại được đặt dưới những góc nhìn mới mẻ, đặc biệt chiến tranh đã tô đậm một bức chân dung anh hùng, vững vàng và liên tiếp chống lại mọi kẻ thù thường gặp trong thơ:

Đất nước tôi thon thả giọt đàn bầu

Nghe dịu nỗi đau của mẹ

Ba lần tiễn con đi hai lần khóc thầm lặng lẽ

Các anh không về mình mẹ lặng im

Tạ Hữu Yên

Từ nguồn xúc cảm chân thực và mạnh mẽ, Đất nước đã lắng đọng trong nỗi nhớ, nỗi mong chờ, xót xa và nhận thức sâu sắc của các tác giả về chủ quyền dân tộc:

Trời xanh đây là của chúng ta

Núi rừng đây là của chúng ta

Những cánh đồng thơm mát

Những ngả đường bát ngát

Những dòng sông đỏ nặng phù sa

Xuân Diệu từng nói « Thơ hay lời thơ chín đỏ trong cảm xúc », quả thật chính những câu thơ tràn ngập lòng tự hào, yêu quý và khẳng định nền độc lập dân tộc đã tạo dựng niềm tin cho cả một thế hệ độc giả. « Trời xanh đây» và « núi rừng đây» gần gũi, nhất định « là của chúng ta », chỉ cần hai lần điệp mà câu thơ thật dõng dạc dứt khoát. Để rồi phép liệt kê sau đó, không còn có cụm từ chỉ sự sở hữu, nhưng tất cả phong cảnh núi sông quê hương hiện lên như một lẽ tất nhiên : tất cả đều thuộc về đất nước Việt Nam thân yêu. Ở đó, Nguyễn Khoa Điềm còn thấy được :

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho đất nước những hòn núi Vọng Phu

Cặp vợ chồng yêu nhau góp nên hòn Trống Mái

... Con cóc, con gà quê hương cùng góp cho Hạ Long thành thắng cảnh

Không có một từ ngữ nào giống với đoạn thơ của Nguyễn Đình Thi song cả hai đều kể ra, tôn lên một quê hương giàu đẹp mà « núi rừng » là « trăm ao đầm » và thắng cảnh « Hạ Long ». Tâm tư tình cảm của con người với nhiều nỗi niềm, kỉ niệm thiêng liêng «hòn núi Vọng Phu », « hòn Trống mái » đến đây cũng góp thành Tổ quốc. Trên hết, vẻ đẹp tâm hồn tình nghĩa đằm thắm đã ghi dấu trên mỗi sự vật, hóa chúng thành thiêng liêng bất tử. Bởi niềm tin ấy, đất nước đã trở đi trở lại thành đề tài trung tâm của rất nhiều tác phẩm thơ ca trong suốt ba thập kỉ này. Không phải chỉ trong“Đất nước”, tiếng thơ mới rung lên đau đáu những trăn trở, suy tư, tình cảm gắn bó mãnh liệt, mà người yêu thơ còn biết đến nhiều tên tuổi lớn “Tổ quốc có bao giờ đẹp thế này chăng- Chế Lan Viên, “Quê hương”- Giang Nam, “Việt Bắc”- Tố Hữu, “Dáng đứng Việt Nam”- Lê Anh Xuân... Nhưng thành công nổi bật đưa hai bài thơ lên đến đỉnh cao của thơ ca cách mạng chính là đã cùng xây dựng được hình tượng đất nước gắn liền với nhân dân, để đất nước thêm mến yêu gần gũi.

Tuy thế, nhìn ra sự giống nhau cũng là để thấy rõ hơn khám phá riêng biệt của hai bài thơ- hai tâm hồn tri âm sâu sắc mà phong phú diệu kì. Cảm hứng về đất nước trong thơ Nguyễn Đình Thi đến từ mùa thu mà cuộc kháng chiến đang diễn ra dữ dội và tàn khốc. Tài năng của Nguyễn Đình Thi gặp Thiên thời- địa lợi- nhân hòa, gặp được ngọn gió lớn của « bão táp cách mạng » bùng lên, sôi nổi và hiện đại. Nó đã khiến cho nhà thơ nhiệt tình ngợi ca và suy tư về sức sống kì diệu của dân tộc trong mối tương quan : khi đương đầu với giặc ngoại xâm. Dọc theo suốt bài thơ ta thấy rất rõ một quá khứ chiến tranh đau thương mất mát mà cả con người và sông núi quê hương đều dốc hết sức để bảo vệ nền độc lập tự do của Tổ quốc.

Người ra đi đầu không ngoảnh lại

Sau lưng thềm nắng lá rơi đầy

Câu thơ có nhiều cách hiểu song nếu như đây là hình ảnh của người lính ra trận, thì dường như cái khoảnh khắc ra đi ấy trở thành đáng trân trọng quá, « đầu không ngoảnh lại » dứt khoát là thế nhưng đâu phải vô tình. Người quay đầu đi mà vẫn còn cảm nhận được cả cái hồn của « thềm nắng lá rơi », thế mới biết sự gắn bó sâu nặng của lòng người với một mảnh đất, với một quê hương. Câu thơ vừa tinh tế gợi cảm vừa mang vẻ đẹp của thời đại « toàn quốc kháng chiến ». Thoát lên trên hiện thực bằng cảm hứng lãng mạn, Nguyễn Đình Thi không những hình tượng hóa những người chiến sĩ kiên cường bất khuất không ngại khó khăn mà còn vẽ họ bằng nét bút dung dị đời thường :

Những đêm dài hành quân nung nấu

Bỗng bồn chồn nhớ mắt người yêu

Lòng yêu nước với lí tưởng cách mạng bao trùm một tình yêu lứa đôi trong sáng vị tha. Hai tình cảm ấy nâng đỡ cho nhau, tô đẹp lẫn nhau. Tình yêu là khát vọng cháy bỏng tạo động lực cho người lính chiến đấu, để trong giờ phút mệt mỏi « đêm dài hành quân nung nấu », anh ấm lòng biết mấy khi nghĩ đến « mắt người yêu ». Hai lần yêu thương cộng lại thành sức mạnh không gì ngăn được. Và như thế, xuất phát từ tình cảm đời thường, con người dũng cảm sẵn sàng làm mọi thứ để bảo vệ sự yên bình, sum họp. Đó là sức sống đã biến những người Việt Nam bình tường trở thành anh hùng, biến những con người chất phác thành thiên thần:

Nước chúng ta

Nước những người chưa bao giờ khuất

Có nhìn về quá khứ xa xôi mới thấy được lòng yêu nước luôn trỗi dậy mạnh mẽ trong mọi hoàn cảnh, thách thức lại tất cả những kẻ thù xâm lược. Có thế mới thấy tầm vóc của con người trong cuộc chiến hôm nay là sự tiếp nối sự nghiệp chống giặc ngoại xâm kiêm trì và bền bỉ qua bao nhiêu thế hệ. Xương máu đã đổ xuống, nhiều thế hệ đã đi qua nhưng cái còn lại đây là đất nước trọn vẹn về cả lãnh thổ và tâm hồn. Bài thơ được viết rất hay, mà quyết định mạch thơ chính là cấu tứ chặt chẽ. Đề tài mùa thu muôn thuở mở ra không gian, thời gian lịch sử của đất nước. Cấu tứ được triển khai trong quá trình vận động hợp lí từ đất nước của hương cốm giản dị tới đất nước « Rũ bùn đứng dậy sáng lòa ». Tầm vóc lớn lao vĩ đại cũng bởi thế mà được tô đậm. Bốn chặng bố cục giống như một trường ca, trải đều trong mùa thu xưa đất nước, đi đến đất nước những ngày đổi mới, không quên nhìn ra hoàn cảnh đau thương để từ đấy vút lên sức mạnh vũ bão của đất nước đứng lên. Cái nhìn toàn cảnh về lịch sử không chỉ dựng nên một bộ khung nâng đỡ toàn bộ tác phẩm mà còn giúp hoàn chỉnh hình tượng đất nước, con người trong thơ. Cảm hứng đất nước xuyên suốt bài thơ, là mạch ngầm kết nối từng mảng tưởng như rời rạc trong tác phẩm, tạo thành hình tượng thơ thống nhất. Đất nước qua hình dung của Nguyễn ĐÌnh Thi bao gồm hệ thống hai hình ảnh chính là đất và trời, quện với nhau chan hòa làm nên gương mặt đất nước. Cho dù ở quê hương đó, tiếng kêu đau thương đã bật ứa máu :

Ôi những cánh đồng quê chảy máu

Dây thép gai đâm nát trời chiều

Nhưng nỗi đau ấy không của riêng ai, mà tất cả mọi người đều chung gánh. Chiến tranh từ bao đời Triệu Đinh Lí Trần hay hôm nay cũng thế, hiện thực, quá khứ hội tụ về đây, khái quát bao nhiêu cảnh mất mát đau đớn đã chảy máu thành vết thương lớn. Phép nhân hóa biến cảm giác của con người thành cảm giác của phong cảnh, dựng nên một bức vẽ tan hoang chằng chịt « dây thép gai » thô bạo cứa vào quê hương mình một nỗi đau máu thịt. Cánh đồng quê như biết nghĩ, biết cảm nhận thấm thía sự xúc phạm, khổ đau. Thủ pháp ngược sáng dựng nên hình ảnh rõ nét và đầy cảm hứng về một buổi chiều có thật, nhà thơ hành quân qua nơi địch đánh phá. Câu thơ giàu giá trị tạo hình, gây ấn tượng sâu đậm trong lòng người đọc bằng hình ảnh đập mạnh vào cảm giác. Tác giả hòa mình vào tình cảnh đó để hiểu cho sâu, cho hết biết bao nhiêu khó khăn cực nhọc, hy sinh gian khổ mà dân mình phải chịu đựng. Càng trong gian khó, con người càng kiên cường. Hình tượng nhân dân vừa hiển hiện vừa thấp thoáng song hành với cuộc trường chinh lịch sử đầy máu lửa.

Ôm đất nước những người áo vải

Đã đứng lên thành những anh hùng

rồi

Người lên như nước vỡ bờ

Người Việt Nam hiền lành nhân từ nhưng dũng cảm bất khuất. Sức mạnh lòng yêu nước của nhân dân như chủ tịch Hồ Chí Minh đã nói « Từ xưa đến nay, mỗi khi Tổ Quốc bị xâm lăng thì tinh thần ấy lại sôi nổi. Nó kết thành một làn sóng vô cùng mạnh mẽ, to lớn, nó lướt qua mọi sự nguy hiểm, khó khăn ». Chính những người anh hùng quần chúng là nền tảng đất nước. Phép so sánh "người lên như nước vỡ bờ" là hình tượng nhân dân được tượng trưng hóa. Bài thơ kết thúc bằng hình ảnh mang tính biểu tượng về sự vươn mình vĩ đại của dân tộc :

Nước Việt Nam từ máu lửa

Rũ bùn đứng dậy sáng lòa

Trỗi dậy mạnh mẽ và ngời sáng, đất nước được phản chiếu qua tâm hồn của tác giả thật vĩ đại. Hình tượng mang đầy tính tượng trưng cũng là một trong số những đặc điểm của thơ ca cách mạng : ngợi ca, tuyên truyền và cổ động cho tinh thần dân tộc. Chính điều đó là biểu tượng của sự gắn kết dân tộc thành một khối đoàn kết và thống nhất, một nhiệm vụ cần thiết của văn học thời kì này. Những hình tượng lớn lao kết thành bài thơ đã cho thấy cách viết có nhiều khám phá tìm tòi của nhà thơ. Để có được điều này, Nguyễn Đình Thi đã tìm chất liệu từ vốn sống thực tế. Xây cất hình tượng bằng những cảm xúc suy tư trực quan được nảy sinh qua những trải nghiệm của người nghệ sĩ, mùa thu Hà Nội đẹp đẽ được chọn để bắt đầu bài thơ :

Sáng mát trong như sáng năm xưa

Gió thổi mùa thu hương cốm mới

Cảm xúc trực tiếp, khám phá thú vị về những nét đặc trưng của thủ đô « sáng mát », « hương cốm mới » đặt bên cạnh cách viết tượng trưng hóa làm phong phú sinh động thêm cho bài thơ. Người đọc xao động bao nhiêu trước vẻ đẹp mùa thu trong lành, khi tâm trạng con người hòa vào thiên nhiên thì lại ngưỡng mộ tôn thờ bấy nhiêu trước tư thế hùng tráng của non sông mình. Như vậy nhà thơ đã thành công trong việc pha trộn hai nguồn xúc cảm đan xen với nhau. Giọng tráng ca cũng là một phần toát lên cái « hồn » của tác phẩm. Người đọc có thể nhận ra sự chuyển biến của nhịp điệu, âm hưởng theo dòng cảm xúc : từ nhịp chậm với những âm cao và trong trở nên trầm xuống khi lắng nghe mạch sống bất diệt của đất nước, rồi dồn dập, cuộn sôi, tuôn chảy để cuối cùng hảo sảng, bừng sáng. Có thể thấy với tâm thế là một người công dân, tác giả đã trở thành một thành viên sống giữa cuộc trường trinh lịch sử. Trong đó, có những phút đau buồn không thể che lấp được, nhưng hạnh phúc biết bao nhiêu trong niềm vui chiến thắng và tự hào. Giọng thơ bấy giờ mới hào sảng khỏe khắn làm sao !

Nếu như thành công lớn nhất của Nguyễn Đình Thi đi vào chiều dài lịch sử, thì Nguyễn Khoa Điềm lại đi vào toàn diện từ bề dài bề rộng đến tầm sâu văn hóa của đất nước, chính điều này là cơ sở đẫn đến nhiều khác biệt trong cách viết của hai bài thơ. Với Nguyễn Khoa Điềm, cảm hứng được gợi lên từ cách cắt nghĩa về đất nước :

Khi ta lớn lên đất nước đã có rồi

Đất nước có trong những cái ngày xửa ngày xưa mẹ thường hay kể

Đất nước bắt đầu từ miếng trầu bây giờ bà ăn

..Đất nước có từ ngày đó

Một hệ thống từ ngữ chỉ thời gian được đưa vào rất tự nhiên « đã có rồi », « bắt đầu lớn lên », « có từ ngày đó ». Những cụm từ này không chỉ một thời điểm xác định mà tác giả muốn lấy nó để tô đậm ấn tượng lâu đời về lịch sử đất nước. Quá trình hình thành đất nước từ đó cũng được định hình. Hình thức tự vấn trả lời cho câu hỏi « đất nước là gì ? đất nước từ đâu ra », nhà thơ đã bắt đầu bằng những kí ức tuổi thơ để hình dung ra một sự tồn tại của đất nước trong nhận thức và tình cảm tự nhiên nhất của con người. Câu thơ giống như mạch suy tư về đất nước. Những vẻ đẹp được khơi lên từ mạch tâm tình, thấm đẫm hơi thở ca dao dân ca huyền thoại sử thi của dân tộc. Cái hay của đoạn thơ chính là sự xuất hiện của hàng loạt hình ảnh có ý nghĩa tượng trưng nhưng rất gần gũi. Sức gợi từ những hình ảnh này đã sựng lên cả một không gian văn hóa truyền thống, mang theo hơi thở tâm hình của ca dao « gừng cay muối mặn xin đừng quên nhau ». Một đất nước của bà, của cha mẹ, đất nước có từ « ngày xửa ngày xưa », gần gũi, thân thuộc sẽ đi vào tâm hồn con người và mãi in đậm trong đó. Mối liên hệ giữa con người với đất nước từ đó cũng không thể tách rời. Đất nước bao gồm những thứ nhỏ nhoi »miếng trầu » « cái kèo cái cột » « hạt gạo », cho đến những gì thiêng liêng, lớn lao nhất. Ta thấy ở đây sự đoàn kết trong quá trình giữ nước, thấy tình yêu ý nhị nồng thắm của cha mẹ, đó là những giá trị tinh thần bền vững sẽ vun đắp cho đứa con cơ sở vững chắc để tự hào về quá khứ, tin vào tương lại của dân tộc. Đất nước như vậy là cuộc sống ở quanh ta, trong ta, đất nước là của nhân dân, đồng bào mình. Cấu tứ của bài thơ xoay quanh tư tưởng đất nước của nhân dân. Đây là điểm quy tụ mọi cách nhìn về đất nước, cũng là đóng góp của Nguyễn Khoa ĐIềm làm sâu sắc thêm ý niệm về Đất nước của thơ chống Mỹ. Ba bình diện cấu thành một thực thể đất nước đều được làm nên từ nhân dân. Đất nước trong chiều dài lịch sử

Em ơi em

Hãy nhìn rất xa

Vào bốn nghìn năm Đất nước

Cái nhìn làm điểm tựa để khái quát được phần bên trong của quá trình hình thành đất nước. Cách gọi « em ơi em » độc đáo. Đất nước xây dựng nên từ nhân dân, và bây giờ chính nhân dân lại nhìn vào nó để thấy tất cả quá trình gian lao nhưng đầy tự hào. Người đọc thấy đâu đâu cũng xuất hiện hình bóng người dân quê hương, lúc thì « Yêu nhau và sinh con đẻ cái », rồi « Những cuộc đời đã hóa núi sông ta », « cần cù làm lụng »’ « khi có ngoại xâm thì chống ngoại xâm ». Chính vì thế mà bề rộng lãnh thổ địa lí cũng dễ dàng mở ra : Khắp ruộng đồng gõ bãi. Những địa danh liên tiếp được liệt kê ra đã cụ thể hóa dáng hình đất nước : « núi Vọng Phu », ‘hòn Trống Mái »... Cảnh thiên nhiên kì thú đã gắn liền với đời sống dân tộc. Nó được những thế hệ, lớp người đi trước tiếp nhận và cảm thụ qua tâm hồn, qua cảnh ngộ, hoàn cảnh, cuộc đời, lịch sử. Trên khắp thế giới này có biết bao nhiêu thắng cảnh đẹp, nhưng không thể cho rằng địa danh này giống địa danh khác, càng không thể hạ thấp vẻ đẹp nhỏ bé của đất nước mình. Khi nghĩ về đất nước, hãy nhớ đến người đàn bà một nắng hai sương chung thủy chờ chồng mà hóa thành tượng đá, hãy nghĩ về mồ hôi nước mắt của bao bậc hiền nhân quân tử đèn sách để xây dựng cơ đồ, có thế, ta mới hiểu hết giá trị của cuộc sống này. Một suy luận xuôi chiều đơn giản sẽ không hiểu được tại sao phải yêu sông núi quê mình. Đấy là lí do mà thơ Nguyễn Khoa Điềm hay và dễ đi vào lòng người

Những người vợ nhớ chồng còn góp cho Đất nước những núi Vọng Phu

... Chín mươi chín con goi góp mình dựng đất Tổ Hùng Vương

...Những học trò nghèo góp cho Đất nước mình núi Bút, non Nghiên

Cái hồn Việt lạ lắm, kì diệu lắm, mà trong mỗi chúng ta, không phải ai cũng nhận ra điều này. Và ý thức sâu sắc hơn cả « đất nước là máu xương của mình », cuộc sống được xây dựng nên từ máu xương của cha ông, nổi bật trong dòng thơ là lòng biết ơn lớn lao vô bờ. In đậm trong suốt mạch thơ là một quan niệm vững chắc không gì thay đổi được về đất nước và nhân dân. Bề dày văn hóa cũng thể hiện ở đây.

Trong anh và em hôn nay

Đều có một phần đất nước.

Đất nước kết tinh hóa thân trong cuộc sống của mõi con người. Sự sống của mỗi cá nhân không chỉ là riêng mình mà còn là Đất nước, bởi mỗi cuộc đời đều được thừa hưởng những di sản văn hóa tinh thần và vật chất của dân tộc. Truyền thống uống nước nhớ nguồn « Nhớ ngày giỗ tổ » , truyền thống đánh giặc giữ nước, lao động xây dựng đất nước, hay ngay trong « miếng trầu bà ăn », « tóc bới sau đầu » cũng chứa đựng tin hoa văn hóa dân tộc. Định nghĩa về đất nước chưa bao giờ toàn diện mà gần gũi như thế. Hơn nữa, cách xây dựng hình tượng cũng là một phần quan trọng làm nên thành công của bài thơ. Hình tượng đất nước được tách ra làm Đất và Nước, tưởng như phi lí song lại trở thành bản chất sâu xa :

Đất là nơi em đến trường

Nước là nơi anh tắm

Đất nước là nơi ta hò hẹn.

...Đất là nơi Chim về

Nước là nơi Rồng ở.

Trong tiếng Việt, Đất nước gồm hai yếu tố hợp thành Đất và Nước. Cách « chiết tự » dễ dẫn đến nguy cơ hiểu sai lạc ý nghĩa, hoặc máy móc giản đơn khi giải thích bằng lí lẽ, nhưng dựa vào tư duy nghệ thuật lại cho phép phân tích và cảm nhận theo các phương diện khác nhau. Đất nước từ huyền thoại « Lạc Long Quân và Âu Cơ, truyền thuyết Hùng Vương và ngày giỗ Tổ đã nói lên chiều sâu lịch sử. Về không gian, đất nước không chỉ là sông núi rừng bể mà còn là nơi rất gần gũi với cuộc sống mỗi người. Đó cũng là không gian sinh tồn của cộng đồng dân tộc qua bao thế hệ:

"Những ai đã khuất

Những ai bây giờ

Yêu nhau và sinh con đẻ cái

Tác giả sử dụng sáng tạo các yếu tố của ca dao truyền thuyết dân gian. có lúc lại dựng nên hình tượng thơ mới vừa gần gũi vừa khác lạ « đất nước là nơi em đánh rơi chiếc khăn trong nỗi nhớ thầm » Đất nước được cảm nhận như sự hợp thành thống nhất các phương diện văn hóa truyền thống phong tục, cái hằng ngày và cái vĩnh hằng, trong đời sống mỗi cá nhân và cả cộng đồng. Định nghĩ về đất nước đã sâu sắc hơn nhiều lắm. Đất nước là một khối vô hình hội tụ những người có chung cội nguồn, yêu thương gắn bó chia sẻ với nhau. Dáng hình tạo từ không gian và tâm hồn là cuộc sống con người. Đan xen với khoảnh khắc thời gian không gian hiện tại là sự thức tỉnh của ký ức cộng đồng, với sự tổng hòa những vẻ đẹp trong dời sống tinh thần, tâm linh, là lòng biết ơn tổ tiên đã ăn sâu vào tiềm thức người Việt:

Đất là nơi con chim phượng hoàng bay về hòn núi bạc

Nước là nơi con cá ngư ông móng nước biển khơi

...
Lạc Long Quân và Âu Cơ

Đẻ ra đồng bào mình trong bọc trứng

Trong hình tượng đất nước có hình tượng nhân dân, mà tác giả chú ý đặc biệt đến đám đông vô danh nhưng vĩ đại. « Năm tháng nào cũng người người lớp lớp ». Như trong một dòng chảy lớn, mỗi con người trong đất nước đều góp một hạt nước bé nhỏ, cuộc đời mỗi người dù vô danh nhưng lại góp phần duy trì nguồn sống, khát vọng bất diệt của dân tộc. Nhân dân là người tạo dựng nên Đất nước, là người gánh chịu những gian lao làm nên chiến công vĩ đại mà hết sức thầm lặng, vô danh. Có thể nói, hình tượng nghệ thuật trong thơ Nguyễn Khoa Điềm được thể hiện theo hướng tập hợp, khái quát hóa, cũng là một cách để khẳng định vững chắc những nét riêng chỉ có ở con người Việt. Vốn sống gián tiếp được tái tạo từ kiến thức sách vở, văn học dân gian rất phong phú chính là cơ sở khiến nhà thơ có cách nhìn như vậy. Ông sử dụng biến hóa kiến thức với pha trộn cảm xúc suy nghĩ chân thành, cho nên câu thơ giống như lời tâm tình. Tư thế của nhân vật trữ tình giống như đang triết luận, tâm sự, tâm tình với người yêu thật thân mật, khi lại nghiêm trang nói về đất nước. Cách xưng hô cũng thế : « Mai này con ta », « Em ơi em » là lời nhắn nhủ trữ tình đằm thắng. Nhiều câu thơ như văn xuôi, câu viết dưới dạng định nghĩa, đó là những suy tư tỉnh táo mang màu sắc triết lí, thể hiện nhân thức đúng đắn của tác giả.

Đọc hai bài thơ giống như bước vào hai cuộc hành trình dạt dào cảm hứng mà ở đấy, ta được ôn lại lịch sử dân tộc, thấm thía hai tiếng Đất nước thiêng liêng. Hai tác phẩm là hai đỉnh cao cùng đề tài với những đóng góp quan trọng không thể thay thế. Từ ngôn từ, cách thể hiện cho tới tư tưởng mới lạ, đặc sắc, mỗi người một vẻ, bổ sung cho nhau, làm giàu thêm cho hình tượng đất nước mình. Giang Nam, Vũ Cao cảm nhận về đất nước gắn liền với hy sinh mất mát, Tố Hữu là đất nước hùng tráng trong cuộc kháng chiến và nghĩa tình son sắt, đạo lí cách mạng, Dương Hương Li nói đến các bà mẹ đàm hầm trong tầm đại Bác, Lê Anh Xuân nghiêng mình trước sự hy sinh của biết bao chiến sĩ vô danh, Hoàng Cầm xót xa trước cảnh quê hương mình bị dày xéo... Bấy nhiêu lời ca, bấy nhiêu người nghệ sĩ đã góp tiếng nói trên thi đàn, nhưng ta vẫn thấy độc đáo, bất ngờ với đất nước đau thương uất ức nghẹn ngào và quật khởi vùng lên của Nguyễn Đình Thi, giọng trầm lắng triết lí nhưng đầy thi vị của Nguyễn Khoa Điềm. Hình tượng đất nước vốn là khái niệm trừu tượng giờ đây hiện lên thật sống động trong thơ, gắn với yêu cầu mang tính sứ mạng của văn học một thời.

Những vần thơ đẹp trong « Đất nước » đã vượt qua thử thách của thời gian, tiếp tục tỏa sáng, giúp thế hệ người đọc hôm nay hiểu hơn về thế hệ cha ông trong những ngày tháng hào hùng nhất của dân tộc. Trong thời đại mới, nhắc nhở về ngày hôm qua góp phần khơi dậy lòng tự hào, tình cảm, ý thức trách nhiệm, khát vọng xây dựng đất nước, cuộc sống giàu đẹp hơn.

Back to top

Bài mẫu 4: Phân tích và so sánh hình tượng đất nước trong đoạn trích đất nước và bài đất nước của Nguyễn Đình Thi

Bài làm

Nguyễn Khoa Điềm và Nguyễn Đình Thi là hai nhà thơ xuất sắc trong nền thi xa Việt Nam. Nhắc đến hai cái tên này chúng ta không thể không nhớ tới hai bài thơ cùng mang cái tựa “Đất nước”. Cùng ca ngợi vẻ đẹp thiên nhiên, con người, văn hóa, lịch sử nhưng hai bài thơ mang màu sắc rất riêng và để lại ấn tượng về hình ảnh đất nước cũng rất riêng.

Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Khoa Điềm nằm trong phần đầu của chương V trường ca “Mặt đường khát vọng”. Tác phẩm được tác giả viết ở chiến khu Trị Thiên năm 1971, đó là những năm tháng nhân dân miền Nam kiên cường chống Mỹ và tay sai. Tác phẩm viết về những thức tỉnh của tuổi trẻ, nhận rõ bộ mặt của đế quốc Mỹ, một lòng hướng về đất nước, ý thức được sứ mệnh của mình đứng dậy đấu tranh cùng với cuộc chiến chung của dân tộc. Trường ca có nhiều chương và đoạn trích “Đất nước” là một trong những đoạn thơ hay nhà thơ viết về tư tưởng: Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại.

Bài thơ “Đất nước” của Nguyễn Đình Thi được hình thành trong một quãng thời gian khá dài, từ 1948 đến 1955. Đây là một trong những bài thơ nổi tiếng của tác giả, mang rõ phong cách thơ Nguyễn Đình Thi. Chủ đề bài thơ bao trùm là lòng yêu nước tha thiết, nồng nàn, ý thức độc lập dân tộc và hình ảnh những người dân từ trong đau thương nô lệ, dưới sự lãnh đạo của Đảng đã đứng lên giành chiến thắng huy hoàng.

Bài thơ của Nguyễn Đình Thi mở đầu bài thơ bằng hình ảnh mùa thu có lẽ bởi dân tộc đã trải qua bao mùa thu đau thương, sầu thảm còn giờ đây mùa thu từ năm 1945 sẽ là mùa thu của Cách mạng, của niềm vui, của tự do độc lập.

Còn Nguyễn Khoa Điềm lại khắc họa hình ảnh đất nước bằng cách đặt nó trong mối liên hệ với không gian và thời gian. Đất nước trong thơ Nguyễn Khoa Điềm được nhìn theo chiều dài lịch sử và được xác định bằng những không gian nhỏ bé, cụ thể và cũng có thể là không gian trừu tượng trong lòng người.

Nhà thơ Nguyễn Đình Thi đã khắc họa hình tượng đất nước với hai đặc điểm vừa trái ngược vừa hài hòa. Trong thơ hiện lên là hình ảnh đất nước đầy những đau thương với “những cánh đồng quê chảy máu” “dậy thép gai đâm nát trời chiều” “bát cơm chan đầy… còn giằng khỏi miệng ta”. Nhưng đất nước chúng ta cũng là một đất nước anh hùng quật khởi khiến cho kẻ thù cũng phải khuất phục

“Xiềng xích chúng bay …

… Lòng dân ta yêu nước thương nhà”

Còn trong bài thơ của Nguyễn Khoa Điềm lại bộc lộ niềm tin sâu sắc về niềm văn hóa lâu đời. Trong tác phẩm của mình, Nguyễn Khoa Điềm đã sử dụng rất nhiều những chất liệu văn hóa dân gian, sử dụng rất nhiều ca dao tục ngữ để làm nên những câu thơ của mình. Ông còn đưa vào thơ mình rất nhiều những truyền thuyết, những phong tục tập quán đậm đà bản sắc dân tộc. Ông nhận thức được sâu sắc những đóng góp lớn lao của nhân dân cho đất nước. Trong đó có cả những đóng góp nhỏ bé, những đóng góp được ghi lại sử sách cũng có những đóng góp âm thầm lặng lẽ không ai nhớ mặt đặt tên nhưng “họ đã làm nên đất nước”.

Đây là 2 bài thơ được ra đời ở hai thời điểm khác nhau khiến cho hình ảnh đất nước cũng có sự khác biệt. Nguyễn Đình Thi thì khắc họa hình tượng đất nước đau thương nhưng đầy kiên cường bất khuất. Trong khi đó Nguyễn Khoa Điềm lại làm rõ một tư tưởng: Đất nước của nhân dân, đất nước của ca dao thần thoại. Điều đó cũng cho thấy rằng bản thân tư tưởng đó đã là trừu tượng vì vậy để làm sáng tỏ nó chỉ có thể dùng các hình ảnh cụ thể, những phong tục cụ thể, những đóng góp cụ thể. Nó quy định cho bút pháp cũng như hướng đi của tác phẩm từ cụ thể đến khái quát từ đó làm sáng tỏ hình ảnh đất nước.

Sở dĩ có sự khác biệt giữa hai bài thơ là do sự chi phối của hoàn cảnh xã hội, văn hóa cũng như điều kiện cụ thể của từng tác phẩm. Một nhân tố quan trọng làm nên sự khác biệt chính là phong cách mỗi nhà văn có sự khác nhau. Thơ Nguyễn Đình Thi thường giàu nhạc tính, có chất hội họa và có cả sự sâu sắc của một tư duy triết học. Thơ Nguyễn Khoa Điềm lại đề cao phẩm chất cách mạng, nhân vật trong tác phẩm của ông thường là những bà mẹ anh hùng, những chiến sĩ giải phóng kiên cường,…

Cả hai bài thơ đều đều ca ngợi tình yêu quê hương đất nước. Tuy có sự khác nhau về bút pháp, bối cảnh ra đời,… và quan niệm khác nhau về hình ảnh đất nước nhưng tựu chung lại ta đều thấy một tấm lòng yêu nước sâu sắc, lòng tự hào dân tộc từ đó ý thức được trách nhiệm to lớn của mình với Tổ quốc, với nhân dân.

Back to top


  • 6 lượt xem
Cập nhật: 07/09/2021