Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" thật đẹp nhưng lại đượm nỗi buồn da diết bâng khuâng của Hàn Mặc Tử. Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ điều đó.
Đề bài: Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ "Đây thôn Vĩ Dạ" thật đẹp nhưng lại đượm nỗi buồn da diết bâng khuâng của Hàn Mặc Tử. Hãy phân tích bài thơ để làm sáng tỏ điều đó.
Bài làm:
Hoài Thanh - Hoài Chân đã nhận xét về hồn thơ Hàn Mặc Tử là một "vườn thơ rộng rinh không bờ bến", mang theo cảm giác "càng đi xa càng ớn lạnh", ớn lạnh bởi thơ chính là tiếng khóc của người thơ, và chỉ "thét lên bằng thơ". Tiếng khóc ấy đã được nhà thơ gửi gắm vào trong tác phẩm “Đây thôn Vĩ Dạ”, dẫu rằng cảnh thiên nhiên trong bài thơ thật đẹp, nhưng lại được nỗi buồn da diết, bâng khuâng.
Cảm hứng để nhà thơ cất bút viết nên bài thơ này, đó là nhờ tấm bưu thiếp và những lời thăm hỏi của bà Hoàng Thị Kim Cúc. Có thể xem đây là duyên cớ để nhà thơ bày tỏ tình yêu tha thiết với thiên nhiên, cuộc sống và con người, từ đó giúp ta cảm nhận được tâm trạng của nhà thơ trong hoàn cảnh éo le, bất hạnh.
Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” hiện ra qua bức tranh thôn Vĩ lúc ban mai. Bài thơ đã mở ra bức tranh ấy bằng một câu hỏi đầy gợi mở, dẫn dắt người đọc:
“Sao anh không về chơi thôn Vĩ?”
Câu hỏi vang lên vừa như lời trách móc, lời mời gọi tha thiết của người con gái thôn Vĩ, nhưng cũng lại như lời tự vấn bản thân vì sao lại chưa về thăm thôn Vĩ. Phải chăng, đây là ao ước thầm kín, là niềm khát khao được trở về của nhà thơ, để thăm lại cảnh cũ, người xưa? Bài thơ tiếp tục mở ra cho chúng ta một khung cảnh thiên nhiên đẹp tinh khôi, ngỡ ngàng:
“Nhìn nắng hàng cau nắng mới lên
Vườn ai mướt quá xanh như ngọc”
Điệp từ “nắng” và hình ảnh “nắng mới lên” đã gợi lên sắc nắng ấm áp, trong trẻo, tinh khôi. “Mướt quá” là tính từ đầy gợi cảm, mượt mà óng ánh đầy xuân sắc. Sự kết hợp với đại từ phiếm chỉ “ai” khiến cho câu thơ như một lời tự thán, ca ngợi cái đẹp tột cùng. Nhà thơ đã so sánh màu xanh với ngọc, diễn tả được sự xanh trong, vừa có màu vừa có ánh. Vườn thôn Vĩ lúc này như một viên ngọc rời rợi sắc xanh, tỏa ánh sáng vào ban mai. Lúc này, một bóng hình đẹp bỗng xuất hiện:
“Lá trúc che ngang mặt chữ điền”:
“Mặt chữ điền” là mặt của một chàng trai? Hay đó là gương mặt của một cô gái? Dẫu sao, ta vẫn có thể cảm nhận được đó là biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành. Nét đẹp ấy được “lá trúc che ngang”, lá trúc mảnh mai, gợi nét đẹp kín đáo, dịu dàng của con người xứ Huế. Câu thơ giàu chất tạo hình, đó là sự hài hòa giữa khung cảnh thiên nhiên xứ Huế (hàng cau, lá trúc...) và bóng hình của con người (mặt chữ điền) trong vẻ đẹp kín đáo, dịu dàng. Ta có thể cảm nhận được cảnh vườn thôn Vĩ tươi sáng trong nắng mai, với cảnh sắc bình dị mà tinh khôi, đơn sơ mà thanh tú, nghiêng về cõi thực. Bức tranh thiên nhiên dẫu đẹp, nhưng không thể phủ nhận rằng ẩn sau đó là một tâm trạng nuối tiếc, một nỗi niềm tha thiết được giao cảm với cái đẹp, với thiên nhiên và con người thôn Vĩ.
Không chỉ dừng lại ở đó, bức tranh thôn Vĩ lại một lần nữa hiện lên, nhưng lúc này, nó không còn là một khu vườn ban mai nữa, mà lại là bức tranh sông nước trong đêm trăng:
“Gió theo lối gió, mây đường mây
Dòng nước buồn thiu, hoa bắp lay”
Điểm nhìn thay đổi từ ban mai sang đêm tối, từ cảnh vườn thôn đến sông trăng, từ khung cảnh hiện thực sang không khí hư hư thực thực đầy huyển ảo. Ta cảm nhận được sự chia lìa li tán được gợi lên qua cả hình ảnh và nhịp điệu. Hình ảnh “Gió theo lối gió, mây đường mây” vận động trái với tự nhiên. Nhìn theo lô gích hiện thực thì mây và gió không thể tách rời. Đây là sự tách rời phi lí và ngang trái. Có thể thấy, sự vật được nhìn nhận không phải bằng cái nhìn thị giác mà bằng mặc cảm chia lìa. Đồng thời nhà thơ còn nhân hóa “Dòng nước buồn thiu” để nhấn mạnh nỗi buồn. “Hoa bắp lay” thể hiện sự phiêu tán, sự ra đi, lưu luyến vô vọng. Từ những hình ảnh ấy, ta nhận ra chủ thể trữ tình cảm thức về thân phận bị bỏ rơi. Nhưng sự chia lìa còn được thể hiện ở nhịp điệu khác thường. Một câu thơ thất ngôn bình thường sẽ có nhịp 2/2/3, nhưng câu thơ này lại sử dụng nhịp 4/3. Phải chăng mỗi đối tượng bị cách li trong một khuôn nhịp riêng biệt, làm nổi bật sự lìa xa nhau. Hình ảnh và nhịp điệu quyện vào nhau khiến cho cuộc chia lìa gió mây càng sắc nét, gây nên cảm xúc đau buồn.
“Thuyền ai đậu bến sông trăng đó
Có chở trăng về kịp tối nay?”
Từ “kịp” như đang phân cách đôi bờ, như một sự hoảng sợ về những phút giây cuối cùng còn tồn tại trong cuộc đời. Mặc cảm chia lìa thấm đẫm vào vạn vật, đó là tiếng khóc cho thân phận bị bỏ rơi bên trời quên lãng của mình. Nhưng đồng thời, bởi sự chia lìa ấy, mà khát khao níu giữ hiện lên rõ rệt. Bởi chỉ một mình trăng là đi ngược lại xu thế chảy đi của những “mây”, “gió”... Từ “kịp” thì lại thể hiện sự phấp phỏng, lo âu, khát khao được gắn bó, được níu giữ. Đó là niềm thiết tha gắn bó, tha thiết đến đau thương, mãnh liệt mà vô vọng. Bức tranh thiên nhiên sông nước hiện ra dưới đêm trăng thật huyền ảo, những hình ảnh trong đêm giúp ta cảm nhận được tâm trạng hoài nghi, mong ngóng, đồng thời cũng thể hiện khát vọng được giao cảm với cuộc đời trần thế của nhà thơ.
Sang đến khổ thơ thứ ba, bức tranh ngoại cảnh bây giờ trở nên hư ảo, từ “mơ” mở ra như báo hiệu một trạng thái vô thức, nhà thơ đang chìm trong cõi mộng.
“Mơ khách đường xa, khách đường xa
Từ “mơ” mở ra như báo hiệu một trạng thái vô thức, nhà thơ đang chìm trong cõi mộng. Điệp từ “khách đường xa” nhấn mạnh nỗi xót xa của nhà thơ, một hình bóng đẹp nhưng xa vời đến nỗi không thể nào gặp được
“Áo em trắng quá nhìn không ra”
Vì sao lại là “trắng quá nhìn không ra”? Tác giả đã cực tả sắc trắng, trắng một cách kì lạ và bất ngờ. Biện pháp hoán dụ khiến cho màu sắc không còn là màu sắc thực nữa mà là màu của tâm tưởng.
“Ở đây sương khói mờ nhân ảnh”
“Ở đây”: hiện thực, là trại phong, nơi tác giả bị cách li với thế giới bên ngoài. Lớp từ: “sương khói”, “mờ” đã nhấn mạnh sự nhạt nhòa, hư ảo, hư thực vì đó là giấc mộng của tác giả, mong được liên kết với cuộc đời nhưng không thể. Tất cả khiến cho ta cảm nhận được bi kịch hiện thực, dường như nhà thơ đang bị lưu đày, cách xa thế giới ngoài kia.
“Ai biết tình ai có đậm đà?”
Đại từ phiếm chỉ “ai” lặp lại hai lần cho thấy tiếng gọi tha thiết đầy khát vọng nhưng “khách đường xa” cứ chập chờn rồi khuất bóng. Đồng thời, câu hỏi tu từ khiến ta cảm nhận được tâm trạng đau khổ vì cô đơn, hoài nghi. Thông qua khổ thơ này, ta nhận ra được sự hoài nghi của tác giả, về nỗi khát khao được sống và được yêu thương, cũng như có thể tận hưởng hết thảy cái đẹp trên đời.
Bức tranh thiên nhiên trong Đây thôn Vĩ Dạ là một bức tranh toàn bích, nó ẩn chứa trong đó tất cả tình yêu, niềm say mê cuộc sống của Hàn Mặc Tử. Dẫu bao nhiêu năm trôi qua, chắc chắn bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ vẫn mãi sống trong lòng những người yêu thơ, yêu cái đẹp.
=> Trên đây là bài viết tham khảo. Tuy nhiên, nếu bạn học sinh nào muốn viết theo ý mình thì KhoaHoc có dàn ý để các bạn dễ viết bài.
1. Mở bài
Giới thiệu Hàn Mặc Tử và tác phẩm Đây thôn Vĩ Dạ
2. Thân bài
- Cảm hứng của bài thơ
- Bức tranh thiên nhiên trong bài thơ “Đây thôn Vĩ Dạ” hiện ra qua bức tranh thôn Vĩ lúc ban mai.
- Câu hỏi tu từ kết hợp với cách gieo vần bằng một loạt thanh bằng
- Điệp từ “nắng” và hình ảnh “nắng mới lên”
- Vườn thôn Vĩ như một viên ngọc rời rợi sắc xanh, tỏa ánh sáng vào ban mai
- Mặt chữ điền là biểu tượng của nét đẹp phúc hậu, hiền lành.
-> Bức tranh thiên nhiên dẫu đẹp, nhưng không thể phủ nhận rằng ẩn sau đó là một tâm trạng nuối tiếc, một nỗi niềm tha thiết được giao cảm với cái đẹp, với thiên nhiên và con người thôn Vĩ.
- Bức tranh thôn Vĩ lại một lần nữa hiện lên, nhưng lúc này, nó không còn là một khu vườn ban mai nữa, mà lại là bức tranh sông nước trong đêm trăng:
- Sự chia lìa li tán được gợi lên qua cả hình ảnh và nhịp điệu.
- Từ “kịp” như đang phân cách đôi bờ, như một sự hoảng sợ về những phút giây cuối cùng còn tồn tại trong cuộc đời
- Khát khao níu giữ hiện lên rõ rệt.
-> Bức tranh thiên nhiên sông nước hiện ra dưới đêm trăng thật huyền ảo, những hình ảnh trong đêm giúp ta cảm nhận được tâm trạng hoài nghi, mong ngóng, đồng thời cũng thể hiện khát vọng được giao cảm với cuộc đời trần thế của nhà thơ.
- Sang đến khổ thơ thứ ba, bức tranh ngoại cảnh bây giờ trở nên hư ảo
- Từ “mơ”: trạng thái vô thức, nhà thơ đang chìm trong cõi mộng.
- Biện pháp hoán dụ: không còn là màu sắc thực nữa mà là màu của tâm tưởng.
- Câu hỏi tu từ: tâm trạng đau khổ vì cô đơn, hoài nghi.
-> Sự hoài nghi của tác giả và nỗi khát khao được sống và được yêu thương, cũng như có thể tận hưởng hết thảy cái đẹp trên đời.
3. Kết bài
Khẳng định giá trị của bài thơ Đây thôn Vĩ Dạ.
Xem thêm bài viết khác
- Nhận xét về nghệ thuật tả cảnh và sử dụng ngôn ngữ trong bài thơ
- Bài điếu văn này có thể chia làm mấy phần? Nêu nội dung của từng phần
- Giá trị nội dung và nghệ thuật trong Một thời đại trong thi ca Soạn văn 11 bài Một thời đại trong thi ca
- Nội dung chính bài Từ ấy Soạn bài Từ ấy
- Những câu hỏi trong bài thơ hướng tới ai và có tác dụng gì trong việc biểu hiện tâm trạng của tác giả
- Căn cứ vào nhan đề và phần mở đầu, xác định chủ đề nghị luận của văn bản
- Nội dung chính bài Đây thôn vĩ dạ
- Phân tích ý nghĩa tư tưởng nghệ thuật của biểu tượng "cái bao"; từ đó khái quát chủ đề tư tưởng của truyện ngắn "Người trong bao"
- Hình ảnh gió, mây, sông, trăng trong khổ thơ thứ hai gợi cảm xúc gì
- Nhận xét về các biện pháp tu từ dùng trong bài thơ Từ ấy Câu 4 trang 44 sgk Ngữ văn 11 tập 2
- Nghị luận xã hội về: thiếu trung thực trong thi cử van 11
- Nội dung chính bài Ôn tập phần văn học Soạn bài Ôn tập phần văn học