Đề 2: Thuyết minh một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị) hằng yêu thích.
Văn mẫu 10 - bài viết số 5 đề 2: Thuyết minh một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị) hằng yêu thích. Sau đây, KhoaHoc gửi đến cho bạn đọc những bài văn mẫu hay nhất, mời các bạn cùng tham khảo.
Nội dung bài gồm:
- Bài mẫu 1: Thuyết minh một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị) hằng yêu thích - Chèo
- Bài mẫu 2: Thuyết minh một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị) hằng yêu thích - nhạc Ballad
- Bài mẫu 3: Thuyết minh một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị) hằng yêu thích - ca Huế trên sông Hương
Bài mẫu 1: Thuyết minh một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị) hằng yêu thích - Chèo
Dàn ý
1. Mở bài:
- Đất nước Việt Nam với bề dày bốn ngàn năm lịch sử, sự giao thoa của nhiều nền văn hóa nên có nhiều loại hình thức nghệ thuật.
- Chèo là một loại hình sân khấu vô vùng đặc sắc của vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và của Việt Nam nói chung
2. Thân bài:
- Nguồn gốc:
- Chèo vốn được sản sinh từ vùng Đồng Bằng Bắc Bộ phổ biến nhất là từ vùng Nghệ Tĩnh chở ra.
- Chèo bắt nguồn từ hình thức nhại, diễn sướng dân gian từ thế kỉ 11
- Chèo là tiếng nói nhân đạo đầy thẳng thắn, kịch liệt đả kích cái ác, cái xấu đề cao giá trị chân thiện mỹ và lương tri của con người.
- Đặc điểm:
- Từ xa xưa hình thức chèo vốn đã gắn bó mật thiết với người dân
- Chèo bao gồm có nhiều thể loại như hát, múa dân gian và văn học tích trì.
- Các vở chèo cổ thường là tiếng nói nhân văn của con người.
- Trải qua cả chục thế kỉ song loại hình nghệ thuật này dường như chưa bao giờ giảm sức hút đối với khán giả
- Hiện nay loại hình nghệ thuật này đang dần dần sống lại và trở nên quen thuộc với nhiều người.
3. Kết bài:
- Chèo là một thể loại âm nhạc xưa được nhiều người yêu thích.
- Cần giữ gìn và phát huy thể loại nhạc chèo.
Bài làm
Đất nước Việt Nam với bề dày bốn ngàn năm lịch sử, sự giao thoa của nhiều nền văn hóa, vùng miền, dân tộc đã tạo nên một cái nôi nghệ thuật đặc sắc với nhiều thể loại hình thức nghệ thuật khác nhau. Tuy nhiên được nhiều người biết đến nhất và yêu thích có thể kể đến hình thức nghệ thuật Chèo. Nó đã trở thành một loại hình sân khấu vô vùng đặc sắc của vùng đồng bằng Bắc Bộ nói riêng và của Việt Nam nói chung.
Nghệ thuật Chèo vốn được sản sinh từ vùng Đồng Bằng Bắc Bộ phổ biến nhất là từ vùng Nghệ Tĩnh chở ra. Chèo . Chèo bao gồm có nhiều thể loại như hát, múa dân gian và văn học tích trì. Chèo mang âm hưởng của các câu ca dao tục ngữ dân dã hóm hỉnh gần gũi với cuộc sống lao động của con người. Bên cạnh đó Chèo còn là tiếng nói nhân đạo đầy thẳng thắn, kịch liệt đả kích cái ác, cái xấu đề cao giá trị chân thiện mỹ và lương tri của con người. Những vở chèo cổ thường có kết thúc có hậu theo truyền thống phương Đông, là tiếng nói ngợi ca tình thương sự bác ái giữa người với người.
Kể từ khi ra đời đến nay dù đã trải qua cả chục thế kỉ song loại hình nghệ thuật này dường như chưa bao giờ giảm sức hút đối với khán giả mọi lứa tuổi, mọi quốc tịch. Có những giai đoạn nghệ thuật Chèo tưởng như không thể đứng lên được nữa song với giá trị tinh thần mà nó mang đến loại hình này đang dần được khôi phục và phát triển nhằm giữ gìn một bản sắc văn hóa dân tộc.
Từ xa xưa hình thức chèo vốn đã gắn bó mật thiết với người dân. Có những hội chèo diễn ra cả tuần lễ nó trở thành món ăn tinh thần không thể thiếu đối với mỗi gia đình. Các vở chèo cổ thường là tiếng nói nhân văn của con người. Không chỉ vạch mặt bọn quan lại phong kiến, ác bá cường quyền mà còn đề cao ước mơ của con người, khát vọng tình yêu và hạnh phúc. Vì thế người ta yêu chèo vì nó chính là tiếng nói của cuộc đời.
Những vở chèo còn là những mẩu chuyện lấy ra từ trong thi ca nó đặc trưng bởi chất thơ mộng, hành văn nhuần nhuyễn,.. Nó chính là sản phẩm của quá trình lao động và sinh hoạt của nông dân chân lấm tay bùn. Điều quan trọng với một diễn viên chèo khi đứng trên sân khấu không phải chỉ là múa mà phải thể hiện được sự uyển chuyển nhịp nhàng. Điệu múa không phải mang tính trừu tượng, ước lệ như các loại hình khác mà nó phải gắn liền với đời sống con người, với nguồn gốc ra đời của nó.
Người ta diễn chèo không phải chỉ múa, chỉ độc thoại nên những câu ca dao tục ngữ mà phải hát. Âm điệu chèo nghe rất ngọt ngào, đi sâu vào tâm trí con người. Hiện nay loại hình nghệ thuật này đang dần dần sống lại và trở nên quen thuộc với nhiều người. Bằng chứng là tại Thủ đô và các thành phố lớn đã thành lập những đoàn nghệ thuật chèo chuyên nghiệp. Nó không chỉ góp phần truyền bá nghệ thuật dân gian mà còn phục vụ đời sống tinh thần của người dân trong nước.
Nghệ thuật chèo ngày nay được rất nhiều người dân yêu thích. Nó không chỉ phản ánh giá trị đạo đức con người mà còn hướng con người ta tới sự hoàn thiện về tư tưởng nhân cách. Những vở chèo cổ không chỉ làm xúc động nhiều khán giá trẻ mà nó còn thể hiện sức sống mãnh liệt của loại hình dân gian này.
Bài mẫu 2: Thuyết minh một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị) hằng yêu thích - nhạc Ballad
Dàn ý
1. Mở bài:
- Âm nhạc luôn luôn phát triển và dần dần định hình được nhiều thể loại khác nhau
- Ballad là một trong những thể loại được nhiều người yêu thích với tiết tấu nhẹ nhàng, giai điệu buồn.
2. Thân bài:
- Nguồn gốc:
- Các bản ballad nổi lên ở Tây Âu từ thế kỷ XIII
- Ballad bắt nguồn từ dòng nhạc country và folk – với giai điệu chậm, thong thả
- Nội dung của các bản ballad thường về tình yêu vĩnh cửu, cái chết, danh dự và sự phản bội
- Đặc điểm:
- Giai điệu của ballad khá cũ so với hiện tại, tuy nhiên rất dễ làm theo và dễ dàng tìm hiểu, ghi nhớ.
- Ballad kết nối mạnh mẽ với các điệu múa ba lê
- Ballad thường sử dụng các quy ước
- Hình thức dòng nhạc bị phân mảnh, nhịp điệu lặp đi lặp lại và sự hấp dẫn có một mẫu số chung thấp nhất.
- Một bản ballad có cấu trúc tương đối ngắn chia thành từng câu và hát theo một câu chuyện như giai điệu...
3. Kết bài:
- Hiện nay, ballad đã bị pha trộn bởi nhiều thể loại nhạc khác nhau. Điều đó giúp cho ballad có sức sống riêng, có điểm khác biệt riêng mà không bị nhàm chán.
Bài làm
Âm nhạc từ xưa đến nay luôn là nguồn thức ăn nuôi dưỡng tinh thần, tâm hồn của con người. Có lẽ vì thế mà qua thời gian, âm nhạc luôn luôn phát triển và dần dần định hình những thể loại thu hút người nghe. Có người ưa thích những giai điệu sôi động của Rock, R&B tươi trẻ, nhưng có lẽ cũng không ít người say sưa với những tiết tấu nhẹ nhàng, giai điệu buồn mang âm hưởng da diết của Ballad.
Có nhiều quan điểm cho rằng ballad đã được thực hiện do một số nghệ sĩ hát rong tạo nên nhưng đại đa số đã được thực hiện bởi người dân châu Âu. Các nhà học giả cho rằng các bản ballad nổi lên ở Tây Âu từ thế kỷ XIII. Nội dung của các bản ballad thường về tình yêu vĩnh cửu, cái chết, danh dự và sự phản bội hay còn gọi được gọi là những bản tình ca cũ. Ballad bắt nguồn từ dòng nhạc country và folk – với giai điệu chậm, thong thả do bắt nguồn từ dòng nhạc country nên lời lẽ không hoa mỹ, nhưng vẫn đủ để tạo nên cảm xúc cho người nghe bởi mang nhiều tâm trạng của tác giả và người hát.
Nhìn chung, giai điệu của ballad khá cũ so với hiện tại bởi nó đến từ truyền thống dân gian. Đa phần là nói về tình yêu đơn phương của các cặp đôi. Cũng chính vì giai điệu khá cổ điển nên ballad kết nối mạnh mẽ với các điệu múa ba lê. Những giai điệu múa đã được công bố trong cuốn sách nhỏ như John Playford của The English Dancing Master. Trong mười tám phiên bản của nó, 1651-1728, Playford công bố phát sóng phổ biến nhất trong ngày. Một nhà sưu tập quan trọng của giai điệu ballad là Thomas D’Urfey, một người đàn ông đa tài năng, người đã viết kịch, bài hát, thơ ca, và hài kịch. Ông là một nhà soạn nhạc là tốt, nhưng đã dành nhiều nỗ lực của mình thích ứng và sắp xếp đã được các giai điệu còn tồn tại. Đó là từ các nguồn được in như thế này mà chúng ta có thể tìm thấy những giai điệu âm nhạc trong đó ballad nổi tiếng như “Up All Tails”, “Drive Cold Winter Away”, “Broom, các Bonny Broom, và hơn 1 chục tác phẩm khác.
Dù nguồn gốc hay đời sau của những giai điệu ballad như thế nào thì chúng đều có đặc điểm chung nhất định. Đó là xu hướng lặp đi lặp lại và có một logic du dương rất dễ thuộc, thu hút được công chúng yêu nhạc. Ballad thường sử dụng các quy ước. Ví dụ như một câu hỏi và câu trả lời hoặc một mô hình của sự biến đổi và độ phân giải như thế tìm thấy trong âm nhạc của Bach hay Handel. Khi đã quen với các quy ước này thì rất dễ dàng để nhận biết ballad, có nghĩa là giai điệu rất dễ làm theo và dễ dàng tìm hiểu, ghi nhớ. Ngay cả những giai điệu ballad nổi tiếng cũng thế. Đặc điểm dễ thấy nhất là hình thức dòng nhạc bị phân mảnh, nhịp điệu lặp đi lặp lại và sự hấp dẫn có một mẫu số chung thấp nhất. Đây cũng là lý do các giai điệu ballad phổ biến trong văn hóa đại chúng, được hát bởi rất nhiều người với giới tính, lứa tuổi khác nhau.
Một bản ballad có cấu trúc tương đối ngắn chia thành từng câu và hát theo một câu chuyện như giai điệu, một số bản ballad mở rộng chỉ có vài dòng, theo từ điển thì một bản ballad là một bài thơ đơn giản dưới dạng thơ kể lại một số câu chuyện phổ biến , nhưng điều này vẫn không hoàn toàn chính xác, khi nhu cầu về cấu trúc stanzain được hoàn thành chỉ trong các bản Ballad quốc gia. Ballad chúng ta có thể hiểu rộng nhất có nghĩa là bất kì bài thơ kể một câu chuyện quan thuộc nào, hoặc một đoạn hát ngắn và không có đệm hoặc khiêu vũ. Yếu tố quan trọng nhất trong một bài hát ballad là lyric. Thông thường lyric được chia thành nhiều verses một cách có vần điệu. Có thể kể đến một số ví dụ như: “Love to be loved by you” của Marc Terenzi và “Not me not I” của Delta Goodrem…
Ở thời điểm hiện tại, ballad đã bị pha trộn bởi nhiều thể loại nhạc khác để tạo thành rock ballad, ballad opera, folk ballad, pop ballad… Chính những màu sắc được pha trộn ấy lại tạo cho ballad sức sống riêng, điểm khác biệt riêng mà không bị nhàm chán.
Bài mẫu 3: Thuyết minh một loại hình ca nhạc (hay sân khấu) mà anh (chị) hằng yêu thích - ca Huế trên sông Hương
Dàn ý
1. Mở bài:
- Giới thiệu một loại hình âm nhạc yêu thích - ca Huế trên sông Hương
2. Thân bài:
- Nguồn gốc: Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian kết hợp với ca nhạc cung đình, nhã nhạc trang trọng uy nghi có thần thái của ca nhạc thính phòng.
- Đặc điểm ca Huế:
- Ca Huế bao gồm cà hai yếu tố ca Huế và đàn Huế được dựa trên một hệ thống các thể điệu của trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc nằm trên hai dòng lớn là điệu Bắc và điệu Nam.
- Những nhạc khúc thuộc về điệu Bắc mang âm sắc tươi vui, sang trọng
- Nhạc khúc thuộc về điệu Nam nghe man mác, buồn thương.
- Ca Huế có âm điệu trầm bồng, du dương.. xao động lòng người, chất chứa đủ bao niềm hỉ, nộ, ái, ố như cuộc đời người dân xứ cố đô.
- Các nhạc công, ca công đều là những nam thanh, nữ tú còn rất trẻ, nam mặc áo the, quần thụng, đầu đội khăn xếp...
- Ca Huế là một món ăn tinh thần quý giá, một thú vui tao nhã mà bất cứ một du khách nào tới Huế.
3. Kết bài:
- Ca Huế trên sông Hương trở thành một loại hình văn hoá du lịch
- Ca Huế cũng là món ăn tinh thần và niềm tự hào của người xứ Huế.
Bài làm
Nếu ai đã một lần ghé Huế đi dạo trên cầu Tràng Tiền, về đêm sẽ có cơ hội dạo thuyền nghe ca Huế. Giữa một trời mây nước bồng bềnh, chơi vơi một giọng hò ai ngân, ai hát khiến lòng du khách giữa đêm thanh tịnh càng cảm thấy mình được siêu thoát, được thăng hoa, được chắp cánh bay tới vầng trăng kia...
Huế vốn là vùng dân ca nổi tiếng với những điệu hò mái nhì, mái đẩy, khoan thai, dàn trải, ngọt ngào như tâm hồn người xứ Huế, những điệu lí bay bổng, mượt mà như lí con sáo, lí hoài xuân, lí tình tang. Bên cạnh dòng âm nhạc dân gian, Huế còn một dòng ca nhạc cung đình trang trọng như giao nhạc, miếu nhạc, ngũ tự nhạc, đại triều nhạc, thường triều nhạc, yến nhạc. Ca Huế hình thành từ dòng ca nhạc dân gian kết hợp với ca nhạc cung đình, nhã nhạc trang trọng uy nghi có thần thái của ca nhạc thính phòng. Nằm giữa hai dòng nhạc đó ca Huế có nhừng đặc trưng riêng với chất trữ tình sâu lắng làm xao động lòng người, chất chứa đủ bao niềm hỉ, nộ, ái, ố như cuộc đời người dân xứ cố đô. Người ta đến với ca Huế là đề được đắm chìm trong cảm giác xao xuyến, buồn, vui đến lạ kì. Bước chân xuống mạn thuyền Rồng, trong không gian tĩnh mịch giữa trời, mây, sông, nước đê cảm nhận hơn nữa cái chất Huế qua những âm điệu trầm bồng, du dương của giọng hát những ca công Huế hòa quyện với tiếng réo rắt của dàn nhạc đủ cà đàn bầu, đàn tranh, đàn nguyệt, sáo, xênh, phách... bán hòa tấu gồm 4 nhạc khúc Lưu thủy, Kim tiền, Xuân phong, Long hổ đã mở đầu cho một đêm ca Huế.
Hầu hết những thú vui của người Huế đều gắn bó với dòng Hương Giang, nơi cội nguồn nảy sinh và hội tụ của bao trò vui nơi đất cố đô này. Đua thuyền, ngủ đò, thả thơ, ca Huế... đều diễn ra trên sông. Sông Hương đã đọng lại trong tâm thức dân Huế một tình cảm dịu dàng nhưng không kém phần hứng khởi. Thú đi nghe ca Huế là một món ăn tinh thần quý giá, một thú vui tao nhã mà bất cứ một du khách nào tới Huế, có chút lòng với Huế cũng đều muốn có dịp được thưởng thức. Ca Huế bao gồm cà hai yếu tố ca Huế và đàn Huế, được dựa trên một hệ thống các thể điệu của trên sáu mươi tác phẩm thanh nhạc và khí nhạc nằm trên hai dòng lớn là điệu Bắc và điệu Nam. Những nhạc khúc thuộc về điệu Bắc mang âm sắc tươi vui, sang trọng và các ca khúc thuộc về điệu Nam nghe man mác, buồn thương. Cũng có những bản nhạc vừa mang âm hưởng của điệu Bắc, vìra pha phách điệu Nam như bài Tứ Đại Cảnh rất nổi tiếng mà nhiều ý kiến cho là tác phẩm của vua Tự Đức (1848-1883).
Thú nghe ca Huế tao nhã, đầy sức quyến rủ. Để tham dự một chương trình ca Huế ngắn trên sông Hương, dư khách sẽ được ngồi trên những con thuyền rồng mà các vua chúa xưa hay ngự, trong khoang thuyền, đàn nguyệt, tỳ bà, nhị, đàn tam, xênh... Các nhạc công, ca công đều là những nam thanh, nữ tú còn rất trẻ, nam mặc áo the, quần thụng, đầu đội khăn xếp, nữ vận những chiếc áo dài cổ từ thời Võ vương Nguyền Phúc Khoát giữa thế kỉ XVIII. Thuyền từ từ rời bến, không khí man mát, không gian huyền ảo bởi ánh trăng dưới nuớc, bởi bóng từng nhịp cầu Tràng Tiền in nổi trên sông... Thuyền đi đến giữa sông chợt dừng lại, không gian bỗng tĩnh lặng đâu đây chỉ còn nghe thấy tiếng phách, tiếng xênh từ những con thuyền đang rẽ nước lặng lờ trôi. Thuyền tắt máy, buông chèo trôi trôi lờ lững trên sông dưới cầu Tràng Tiền giăng giăng ánh điện màu như sao sa. Sau lời giới thiệu của một nghệ sĩ trẻ, khúc nhã nhạc Cung đình vang lên, đưa người nghe quay về cái không khí trang trọng nhưng vần thân thuộc của cả một thời kì quá vãng. Rồi tiếng hát thanh taọ với các âm điệu dân gian ca Huế được cất lên trầm bổng trong khoang thuyền mờ mờ tối. Thật là tuyệt diệu khi được lắng nghe những điệu nhạc lời ca câu hò về Huế với đủ thể loại mà từ trước đến nay tôi chưa có dịp nghe nhiều và nghe đủ như thế. Những cầu thương yêu, ngợi ca non nước đẹp xinh, thơ mộng được dàn trải thành lời và được cất cao lên cung bậc thánh thót, nao nao dạ lòne khách nghe, đặc biệt có một số bài hát trước đây từ Cung đình như Lưu Thủy, Xuân Phong, Long Hổ, Hạ Giang Nam cũng được trình bày. Điều kì lạ của ca Huế cùng như của những khúc dân ca Việt Nam, ấy là sự trầm lắng, da diết và thân thuộc đến lạ kì của những cung nhạc. Nó đi vào lòng người rồi lắng lại, để lại những ấn tượng khó phai, xao xuyến.ẽ.
Ca Huế là một môn nghệ thuật độc đáo bởi vì không phải ai ca cũng đúng giọng điệu, mà muốn nghe ca Huế chuẩn, hay thì người biểu diền phải là người Huế. Ca Huế chỉ dành cho người Huế ca, như quan họ Bắc Ninh chỉ dành cho người Kinh Bắc. Một sắc thái của riêng Huế, của ca nhạc Huế "không nơi nào có được".
Ca Huế không phải lối giải trí xô bồ mà nó thường kén người nghe. Một đêm ca Huế có thể được tổ chức trong một thính phòng nho nhỏ nhưng thi vị và hấp dẫn hơn cả là được nghe ca Huế trong một đêm trăng lên trên dòng Hương Giang thơ mộng, bềnh bồng trên chiếc thuyền rồng. Lúc đó tâm hồn của nẹười nghe và cả ca sĩ cùng dàn nhạc dường như được siêu thoát trong một bầu không khí như được thăng hoa cùng trời, mây, sông, nước. Sau phần đầu của một đêm ca Huế với tiết tấu âm nhạc rộn ràng, vui tươi của điệu Bắc, người ta thường hát những bài bản trang trọng, uy nghiêm như Long Ngâm, Tứ Đại Cảnh. Đêm càng về khuya, không gian càng yên tĩnh là lúc đó những điệu Nam Ai, Nam Bình, Tương tư khúc... cất lên với nỗi buồn thương nhưng cũng rất gợi tình. Ngày nay, do thị hiểu của người nghe các ca sĩ thường lông vào chương trình nhừng bài tân nhạc nhưng cũng rất dễ thương về Huế với các nhạc phẩm đầy chất Huế thật sự đi vào lòng người như "Mưa trên phố Huế", "Huế thương", "Đêm tàn bến Ngự", "Ai ra xứ Huế, "Đây thôn Vĩ Dạ". Hai bên bờ sông Hương, trên bến dưới thuyền tấp nập, vẳng đâu đây tiếng sáo tiếng nhị, tiếng phách cùng điệu hò da diết của dân ca xứ Huế. Đen Huế, chưa nghe ca Huế là chưa thực sự hiểu về Huế. Một đêm ca Huế trên sông Hương giữa tiếng sóng nước ru vỗ vào mạn thuyền rồi lan xa, lan xao... Trăng càng về đêm càng vằng vặc giữa thinh không tĩnh mịch... Giọng hát, tiếng đàn đã thực sự ru tâm hồn ta vào một miền kí ức sâu thẳm nhuộm tím lòng người không sao quên được. Không gian như lắng đọng, thời gian như ngừng trôi, chỉ có lòng du khách đang thả hồn cùng tiếng hát mê li... và chợt nhận ra rằng đằng sau giọng ca ngọt ngào ấy là nội tâm phong phú của người con gái Huế, âm thầm kín đáo và cũng rất tinh tế.
Ngày nay ca Huế trên sông Hương trở thành một loại hình văn hoá du lịch. Nhung ca Huế trôn sông Hương vẫn mãi là món ăn tinh thần, là niềm tự hào của con người xứ Huế.